Hậu Covid-19 và nỗi lo hình sự hóa các quan hệ dân sự
Đại dịch rồi sẽ qua, nhưng hậu quả mọi mặt của nó trong đó có việc phải xử lý bằng pháp luật cần được dự liệu, để đảm bảo trật tự của thể chế kinh tế, quyền lợi của người dân và nhất là doanh nghiệp.
Covid-19 trước hết là hiện tượng y học, đồng thời còn là hiện tượng kinh tế và pháp luật, bởi tác động của nó tới các quan hệ kinh tế mà pháp luật phải điều chỉnh thậm chí cả luật hình sự.
Không chỉ ở một quốc gia
Một trong những biểu hiện của đại dịch về kinh tế là sản xuất đình đốn, các hợp đồng bị đánh tháo, cam kết bị vi phạm, nghĩa vụ không thể hoàn thành...
Về mặt pháp lý, nhiều người phải đối mặt với nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì không thể hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng nếu pháp luật không quy định chặt chẽ và diễn giải minh bạch vấn đề này. Đây là vấn đề không chỉ có ở một quốc gia.
Bỏ tù con nợ là hình thức bảo vệ quyền sở hữu bị coi là thái quá trong pháp luật trước đây ở nhiều nước trên thế giới. Điều này thể hiện bằng sự xuất hiện các nhà tù "con nợ", theo đó một người có thể bị bỏ tù vì không trả được nợ tư nhân.
Tập quán này được sử dụng ở Vương quốc Anh và các thuộc địa vào thế kỷ 19 trở về trước. Tuy nhiên, việc bỏ tù các con nợ đơn thuần vì lý do không có khả năng thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng đã bị nghiêm cấm bằng nguyên tắc của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966 mà Việt Nam đã tham gia. Điều 11 Công ước này quy định: Không ai bị bỏ tù vì lý do duy nhất là không có khả năng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Nguyên tắc này nhấn mạnh đến "không có khả năng", chỉ ra rằng người đó phải không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thay vì chỉ đơn giản là không muốn làm như vậy. Từ "đơn thuần" nói về điều cấm bảo vệ những người đã thực hiện một số hành vi phạm tội khác ngoài hành vi vi phạm hợp đồng và lý do khác được nại ra để trốn tránh nghĩa vụ.
Nguyên tắc chứa đựng giá trị nhân văn ở chỗ xuất phát từ chính bản chất của giao dịch dân sự là tự nguyện, bình đẳng. Khi đặt bút ký một khế ước, người ta luôn mong phía bên kia thực hiện đúng cam kết. Điều đó là lý tưởng, nhưng pháp luật luôn dự trù những công cụ để các bên tham gia quan hệ hợp đồng bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu bên kia bội tín, đó chính là các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của dân luật.
Can thiệp hình luật
Nghĩa vụ bị vi phạm thì các biện pháp bảo đảm sẽ được kích hoạt (phát mãi tài sản đảm bảo). Nếu hợp đồng không có biện pháp này, không có nghĩa là nó không được đảm bảo mà nó đảm bảo bằng niềm tin.
Khi một bên bội tín thì bên có quyền phải chịu rủi ro bởi mình đã nhận bảo đảm không bằng tài sản mà là niềm tin với bên kia.
Nhà nước sẽ không can thiệp bằng luật công bởi điều này do các bên tự nguyện thỏa thuận. Chính vì vậy, không có chuyện hình luật can thiệp để bắt bỏ tù bên vi phạm nghĩa vụ.
Hình luật chỉ can thiệp khi nào? Bộ luật Hình sự Việt Nam có tội danh “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Tội danh này được diễn giải là: Người nào có được tài sản thông qua các hợp đồng dân sự ngay thẳng, hợp pháp như vay, mượn, thuê… nhưng sau đó dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả nợ mà tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên (hoặc tuy dưới 4 triệu đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án về các tội chiếm đoạt nhưng chưa xóa án tích, tài sản có giá trị tinh thần, tài sản là phương tiện kiếm sống duy nhất của người khác).
Như vậy, nguyên tắc không bị bỏ tù bởi lý do duy nhất (đơn thuần) không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng đã được gián tiếp ghi nhận ở Việt Nam trong luật hình sự bằng việc nhấn mạnh những dấu hiệu của tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là cố tình không trả mặc dù có khả năng để trả, dùng thủ đoạn gian dối, bỏ trốn để chiếm đoạt hoặc dung tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả nợ.
Điều đó có nghĩa rằng, nếu không hoàn thành nghĩa vụ (trả nợ) mà không thuộc trường hợp trên thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không được thành lập.
Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của nguyên tắc của Công ước quốc tế về quyền con người 1966. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ cần có nhận thức đúng đắn về về tội danh trên của bộ luật Hình sự và thực tiễn áp dụng cần khách quan, chính xác nhằm thể hiện được nội dung rất tiến bộ đó, tránh tình trạng hình sự hóa quan hệ dân sự có thể xảy ra trong thời gian tới.
Dịch bệnh rồi sẽ đi qua, nhưng hậu quả mọi mặt của nó trong đó có việc phải xử lý bằng pháp luật cần được dự liệu, để đảm bảo trật tự của thể chế kinh tế, quyền lợi của người dân và nhất là các doanh nghiệp, tránh hình sự hóa quan hệ dân sự. Bởi lẽ, số doanh nhân đi tù tăng lên có thể phản ánh hiệu quả của hệ thống phòng chống tội phạm nhưng sẽ là sự bất an của thể chế kinh tế thị trường.
TS Đinh Thế Hưng (Viện Nhà nước và pháp luật - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam)