Hiểu đúng 'chữ khổ' trong Phật giáo
M
ấy năm trở lại đây, số lượng các bạn trẻ và những ngươìtrí thức đến với Phật giáo ngày càng nhiều.
Họ tìm đến đạoPhật với nhiều mục đích khác nhau; nhưng hầu hết có mẫu số chung là thấy được nềnminh triết của đạo Phật mang tính giá trị tâm linh thực tiễn đối với cuộc sống.Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều người gán cho Phật giáo là tôn giáo chủtrương theo học thuyết khổ đau. Theo quan niệm của họ, Phật giáo là tôn giáo chỉdành riêng cho những người già cả, những kẻ chán đời và là tôn giáo chỉ phục vụcho tín ngưỡng cầu an, cầu siêu. Có lẽ câu nói mang tính cách phiến diện “Đơìlà bể khổ” là câu nói quen thuộc khi người ta nhắc đến Phật giáo.
Nếu chúng ta biết sống thiểu dục tri túc, không chấp ngã và dục vọngvị kỷ hay những phiền não chi phối ngự trị trong tâm thì cuộc đời an lạc, hạnhphúc
Thật ra, Phật giáo là tôn giáo của thực tiễn, nhìn sự vậthiện tượng mang tính chất khách quan. Phật giáo không ru bạn ngủ vào một thiênđường ngụy tạo và không làm bạn sợ hãi và tội lỗi do tưởng tượng. Phật giáo chỉcho ta một cách khách quan ta là ai và thế giới xung quanh ta là gì, và chỉ chochúng ta con đường để đi đến sự tự do đích thực, và hạnh phúc tối thượng.
Thực tế, chữ khổ trong Phật giáo không chỉ đơn thuần cónghĩa là “khổ sở”, “đau đớn”, “sầu khổ”, “thống khổ”. Khổ tuy được dịch trongthuật ngữ Pali là dukkha, trình bày quan điểm của Đức Phật về cuộc đời và thếgian mang nhiều ý nghĩa triết học sâu sắc nhưng ít khi được hiểu một cách đầy đủvà chính xác. Vì lâu nay chúng ta có thói quen dịch dukkha có nghĩa là khổ, chonên nhiều người cho rằng Phật giáo chủ trương đời chỉ là khổ đau.
Dukkha là “không hoàn hảo”, “không ổn định”, “không thườnghằng”, “tạm bợ”, “hư dối”, “không chắc chắn”, “không nên bám víu”, “trốngkhông” (không có một thực thể tồn tại độc lập), v.v… Cho nên rất khó để tìm mộttừ ngữ nào có thể bao hàm hết mọi khái niệm của dukkha trong Tứ Thánh đế của Phậtgiáo. Thiết nghĩ, tốt nhất chúng ta nên để nguyên nó, không nên dịch, còn hơnlà phải dịch mà không đầy đủ, không thỏa đáng, sẽ làm nhiều người ngộ nhận vàhiểu lầm nếu ta cứ chọn cách dịch theo kiểu truyền thống là “đau khổ” hay là“khổ sở”.
Đức Phật không nói là không có những hạnh phúc trong cuộcđời khi Ngài nói cuộc đời này có nhiều thứ khổ đau. Ngược lại, Đức Thế Tôn côngnhận rất nhiều hạnh phúc về vật chất và tinh thần có trong đời sống của hàng xuấtgia cũng như tại gia:
- Hạnh phúc của cuộc sống gia đình và hạnh phúc cuộc sốngcủa người xuất gia đi tu.
- Hạnh phúc của khoái lạc nhục dục và hạnh phúc của sự từbỏ được chúng.
- Hạnh phúc của sự ràng buộc dính chấp và hạnh phúc của sựbuông bỏ được chúng.
- Hạnh phúc về vật chất và hạnh phúc về tinh thần.1
Nhưng tất cả những loại hạnh phúc đó đều nằm trong chữdukkha, đều thuộc về sự “khổ”. Bởi vì chúng đều là đối tượng của sự biến đổi, tạmbợ, không chắc chắn, không thường hằng, không nên bám víu. Nghĩa là tất cả hạnhphúc nào thuộc về thế gian tạm bợ đều nằm trong dukkha. Như vậy, chúng ta thâýrằng dukkha không chỉ có khổ mà còn bao hàm cả lạc và hỷ trong thế gian này.
Trong kinh Trung bộ, sau khi đề cao giá trị hạnhphúc tâm linh của những tầng thiền định, Đức Thế Tôn dạy thêm rằng chúng là nhữngtrạng thái “không thường hằng (vô thường), là khổ (dukkha) và luôn bị đôỉthay (aniccàdukkha)”.2 Chúng ta phải ghi nhớ rằng từ “dukkha” khôngphải chỉ có đau khổ theo nghĩa thông thường của thế gian, mà bởi vì những gì vôthường đều là khổ.
Khái niệm “dukkha” có thể được nhìn từ ba khía cạnh:
1. Về phương diện sinh lý: khổ là một cảm giác khó chịu, bứcbối, đau đớn. Cảm giác đau đầu, nhức răng, nhức mỏi toàn thân khi trái gió trởtrời, bụi bay vào mắt làm ta khó chịu…, đây là sự đau đớn bức bách về thể xác.Chúng ta sinh ra đã vất vả khốn đốn; lớn lên già yếu, bệnh tật khốn khổ vôcùng; cái chết: sự tan rã cuối cùng của thể xác đem lại khổ thọ đớn đau.
2. Về phương diện tâm lý: khổ đau này là do không toại ý,không vừa lòng. Những mất mát, thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ đau. Nhữngngười thương muốn gần mà ở xa cách, còn người mình ghét thì cứ gặp hoài. Muốntiền tài, danh vọng, địa vị thì lại vụt ra khỏi ngoài tầm tay của mình.
3. Khổ là do chấp thủ vào thân này: Đức Phật dạy “Năm uẩn dính chấplà khổ”3. Năm uẩn là năm yếu tố nương vào nhau để tạothành con người, gồm thân thể, cảm giác, niệm tưởng, tâm hành và nhận thức. Nóicụ thể hơn, khi ta bám víu vào năm uẩn, coi đó là ta, của ta, tự ngã của ta; ýniệm về thân thể tôi, tâm tư tôi, tình cảm tôi, nhận thức của tôi… hình thành mộtcái tôi ham muốn, vị kỷ, từ đó mọi khổ đau phát sinh.
Có thể nói rằng, về mặt hiện tượng, khổ đau là cảm giáckhổ về thân, sự bức xúc của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặtbản chất, khổ đau là do sự chấp thủ và ngã hóa năm uẩn.
Nguyên nhân của khổ là do ái dục (taṇhā). Ái cónghĩa là yêu hay ưathích, dục là ham muốn. Đức Phật ví sự nguy hiểm của ái dục như: khúc xương vàcon chó đói, miếng thịt trong đám diều hâu, tù nhân và hố than hừng, dục nhưtài sản vay mượn, như người cầm đuốc đi ngược gió, như con rắn độc, dục như giấcmộng…3. Ái dục không thể tự nhiên phát sinh. Chúng ta không thể tựnhiên thích ai hay yêu mà chưa bao giờ gặp hay tiếp xúc với người đó. Do sự tiếpxúc mà tham ái phát sinh. Nói chung, do tham ái mà chấp thủ, bám víu vào đối tượngcủa tham ái. Sự khátkhao về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lòng khát ái ấy không bao giờ thoảmãn.
Nguyên nhân sâu xa và căn bản hơn chính là vô minh. Vì vôminh cho nên không nhận ra bản chất của sự vật hiện tượng đều là vô thường, biếnđổi, chuyển biến, không nhận diện được tất cả mọi thứ đều nương vào nhau màsanh khởi, không có cái chủ thể, cái tồn tại độc lập trong chúng. Vì vô minhnên nghĩ tưởng sai lầm chấp ta, của ta, tự ngã của ta, vì nghĩ tưởng sai lầmnên giận hờn vu vơ, ích kỷ, bực bội, khó chịu hay gọi là phiền não. Vì phiềnnão nên tạo ra những hành động bất thiện. Tạo nghiệp bất thiện thì kết quả khổđau.
Phương pháp diệt khổ của đạo Phật có rất nhiều nhưng tưụtrung có thể nói là Bát Chánh đạo hay tóm tắt vào ba nhóm chính yếu sau đây:
a. Nhóm thứ nhất thuộc về đạo đức
- Ngôn từ đúng đắn: Nghĩa là không nói những lời đưa đếnđau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những lời đưa đến sự chuyển hóa khổđau, thương yêu, từ tâm, chân thật, lợi ích.
- Hành động đúng đắn: Không có hành vi giết hại, lừa gạt,trộm cắp, tà dâm. Thực tập nuôi dưỡng lòng từ bi đối với người mình thương vàchính ngay cả người làm mình khổ đau mệt mỏi, mở rộng vòng tay để dấn thân phụngsự giúp đời.
- Phương tiện sinh sống đúng đắn: Nghề nghiệp chân chính,không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo.
b. Nhóm thứ hai thuộc về thiền định
- Nỗ lực đúng đắn: Nghĩa là ngăn chặn những điều ác chưasanh và đã sanh, cố gắng nuôi dưỡng và phát huy những tâm thức lành mạnh, tốt đẹpvốn đã sanh và chưa sanh.
- Nhớ nghĩ đúng đắn: Đừng tìm về quá khứ khổ đau hay hướngtâm tới những tương lai hão huyền, nhớ các pháp bất thiện, đừng cho các đối tượngbất chính dẫn mình đi phiêu bạt. An trú vào tâm ý thiện lành ngay giây phút hiệntại.
- Tập trung tư tưởng đúng đắn: Nghĩa là đừng để tâm thứcchúng ta bị phóng dật, rối loạn, tập trung vào thiền định để làm an tịnh tâm thứcmột cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển tuệ giác.
c. Nhóm thứ ba thuộc về trí tuệ
- Thấy và hiểu đúng đắn: Nhận thức đúng về đạo đức của cuộcsống, cái nào thiện và bất thiện. Hiều đúng về sự vật là vô thường, vô ngã,duyên sanh. Nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên nhân, sự diệt khổ và con đườngđưa đến hết khổ.
- Suy nghĩ đúng đắn: Tâm hướng về sự buông bỏ, yêu thươnggiúp đỡ mọi người, bất bạo động, nhẫn nhục, tâm giải thoát.
Nói tóm lại, cuộc đời này không phải là bể khổ, mà cũngkhông phải vui sướng. Khổ hay không là do tâm mình; nếu như tâm mình đầy thamlam, sân hận, si mê, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì khổ là điều hiển nhiên. Vàngược lại, nếu chúng ta biết sống thiểu dục tri túc, không chấp ngã và dục vọngvị kỷ hay những phiền não chi phối ngự trị trong tâm thì cuộc đời an lạc, hạnhphúc. Cụ thể hơn, chúng ta ứng dụng và thực hành Bát Chánh đạo để diệt trừ vôminh ái dục là phương pháp hữu hiệu nhất.
Cần khẳng định rằng, Phật giáo không phải là tôn giáo củabi quan hay lạc quan mà là tôn giáo của sự thực tiễn, vì Phật giáo mang mộtcách nhìn về cuộc đời và thế gian một cách thực tế. Đức Thế Tôn xuất hiện giưãcuộc đời “Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ranhững gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối...”.4Đức Phật không những tìm ra nguyên nhân căn bệnh của chúng sinh mà còn để lạimột nền minh triết đồ sộ, kho tàng dược liệu để chữa trị bệnh khổ đau cho chúngsinh. Học Phật là phát huy tuệ giác, có thái độ sáng suốt, tích cực, từ bi, dámđối diện với sự thật để giải quyết tận gốc những khổ đau cũng cuộc đời, chứkhông sống trong giả vờ đối đãi hay lạc quan để tự lừa dối mình.
Thích Châu Viên
_____________
1 Kinh Tăng chi bộ, HT.Thích Minh Châu dịch,Kinh về các nam Thiên nhân và các nữ Thiên nhân.
2 Kinh Trung bộ, HT.Thích Minh Châu dịch, Đại kinh Khổ uẩn.
3 Kinh Trung bộ, HT.Thích Minh Châu dịch,kinh Đại Potaliya.
4 KinhTương ưng, HT.Thích Minh Châu dịch, Tương ưng Bà-la-môn.
Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//phathoc/2019/11/18/17d6d8/