Hình thành cơ chế quản lý thống nhất hoạt động hợp tác trên các lưu vực sông xuyên biên giới
Đây là vấn đề được Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đặt ra tại Hội nghị toàn thể Ủy ban sông Mekong Việt Nam năm 2024, chiều 18/12.
Nhấn mạnh vai trò quan trọng của Ủy ban sông Mekong Việt Nam trong cơ chế hợp tác quốc tế trên toàn lưu vực sông Mekong, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đề nghị các thành viên Ủy ban đánh giá thẳng thắn, toàn diện tình hình hoạt động của Ủy ban thời gian qua, nhất là yêu cầu phải đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động trong bối cảnh tình hình mới. Đó là sự xuất hiện của nhiều cơ chế hợp tác mới ở lưu vực sông Mekong (Mekong - Lan Thương, Mekong - Hoa Kỳ, Mekong - Hàn Quốc, Mekong - Nhật Bản, cơ chế hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS); bảo đảm an ninh nguồn nước trên các con sông xuyên biên giới đi vào Việt Nam; cả nước đang triển khai sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy với nguyên tắc "1 việc không giao cho 2 người"…
Theo Phó Thủ tướng, trong giai đoạn mới, Ủy ban sông Mekong phải xác định rõ sứ mệnh, mục tiêu và mô hình tổ chức bộ máy hoạt động của một cơ chế có tính đa ngành, liên địa phương, liên vùng trong quản lý, hợp tác các lưu vực sông xuyên biên giới của Việt Nam. Mục tiêu cuối cùng là không chỉ Đồng bằng sông Cửu Long, mà lưu vực các sông xuyên biên giới khác chảy qua Việt Nam luôn được chia sẻ nguồn nước tốt nhất, chủ động nhất, tránh bị động, giảm bớt ảnh hưởng, tác động tiêu cực từ hoạt động khai thác, sử dụng trên thượng nguồn, biến đổi khí hậu.
Báo cáo tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ TN&MT Đỗ Đức Duy cho biết, Ủy ban sông Mekong Việt Nam chịu trách nhiệm đầu mối về các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ Ủy hội sông Mekong quốc tế, là một cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa chiến lược đối với Việt Nam.
Trên lưu vực sông Mekong, Việt Nam có sông Sê San, Srêpốk là thượng nguồn đổ xuống Campuchia và vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng là hạ nguồn Sông Mekong trước khi đổ ra biển. Đồng bằng sông Cửu Long có vai trò vô cùng quan trọng trong bảo đảm an ninh lương thực và phát triển kinh tế quốc gia, đồng thời cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do chịu tác động của các diễn biến bất thường của biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết cực đoan, tác động của hoạt động khai thác, sử dụng nước gia tăng từ các quốc gia thượng nguồn sông Mekong…
Tác động của biến đổi khí hậu cũng gây ra những hệ lụy cho vùng đồng bằng những năm gần đây. Đó là diễn biến lũ bất thường chủ yếu là những năm lũ nhỏ không bảo đảm vệ sinh đồng ruộng, bồi đắp phù sa. Hạn hán gia tăng, mặn xâm nhập sâu vào cả nguồn nước mặt và nước ngầm. Sụt lún đất diễn ra trên diện rộng. Sạt lở bờ sông, bờ biển xảy ra trên hầu hết các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đe dọa đến sự ổn định của đồng bằng, tác động ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế - xã hội của người dân trong vùng.
Ngoài ra, lưu vực sông Sê San, Srêpốk của Tây Nguyên cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong khai thác sử dụng nguồn nước, gia tăng phát triển thủy điện, công nghiệp, nước tưới thủy lợi; khai thác quá mức nước ngầm… trong bối cảnh biến đổi khí hậu dẫn đến một số khu vực thường xuyên phải đối mặt với các vấn đề như lũ lụt, hạn hán, sạt lở, suy thoái nguồn nước mặt, nước ngầm…
"Bên cạnh chức năng hợp tác quốc tế trong khuôn khổ Ủy hội sông Mekong quốc tế, Ủy ban sông Mekong Việt Nam đã được giao thêm chức năng, nhiệm vụ của tổ chức lưu vực sông đối với lưu vực sông Cửu Long và lưu vực sông Sê San - Srêpốk. Đây là một bước tiến quan trọng, giúp quản lý toàn diện và thống nhất phần lưu vực sông Mekong trên lãnh thổ Việt Nam, đồng thời nâng cao hiệu quả phối hợp trong quản lý, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước trên toàn lưu vực, góp phần vào sự phát triển bền vững của khu vực", Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho biết.
Tại Hội nghị, các đại biểu nêu ý kiến đánh giá các thách thức hiện nay trong phạm vi quản lý của từng bộ, ngành, địa phương; các vấn đề liên ngành, liên tỉnh, liên quốc gia; kiến nghị vai trò và trách nhiệm của Ủy ban sông Mekong Việt Nam trong giải quyết các khó khăn, thách thức bảo đảm quản lý, khai thác và bảo vệ hiệu quả tài nguyên nước sông Mekong. Đề xuất các định hướng ưu tiên cho chương trình công tác của Ủy ban trong năm 2025 và giai đoạn tiếp theo, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và mục tiêu phát triển bền vững.
Đồng thời, đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban và Văn phòng Thường trực, đặc biệt trong công tác quản lý tổng hợp lưu vực sông và phối hợp liên ngành, liên địa phương.
Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh hoạt động của Ủy hội sông Mekong quốc tế, Ủy ban sông Mekong Việt Nam có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển trên lưu vực sông Mekong, có sự quan tâm, tham gia, đóng góp của các nước lớn, phát triển trên thế giới.
Nêu rõ tác động cực đoan của biến đổi khí hậu ở lưu vực sông Mekong, cũng như các sông xuyên biên giới, đều liên quan đến tài nguyên nước, Phó Thủ tướng cho rằng những cơ chế hợp tác, chia sẻ dữ liệu, thiết lập hệ thống quan trắc chung, tham vấn khi triển khai các dự án trên dòng chính, điều tra đánh giá tác động của các công trình thượng nguồn đối với hạ nguồn… có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam. Bên cạnh đó, bối cảnh tình hình có sự đan xen về bảo đảm an ninh nguồn nước, bảo vệ môi trường, da dạng sinh học… với lợi ích, ảnh hưởng địa chính trị, kinh tế, ngoại giao.
Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội để đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban sông Mekong Việt Nam để kịp thời nắm bắt, nghiên cứu sâu sắc, toàn diện… và báo cáo cấp thẩm quyền đối với những vấn đề đặt ra trong hợp tác đa phương, song phương về các lưu vực sông xuyên biên giới. Ủy ban cần thành lập những tổ công tác do các bộ chuyên ngành (Ngoại giao, KH&CN, TN&MT…) chủ trì nhằm kiến nghị, đề xuất các giải pháp về thể chế, kỹ thuật trong quá trình thực hiện hợp tác trên các lưu vực sông xuyên biên giới.
Trong thời gian tới, Ủy ban sông Mekong Việt Nam cần tiếp tục duy trì, mở rộng, làm sâu sắc thêm các cơ chế hợp tác song phương, đa phương hiện nay về chia sẻ dữ liệu, quan trắc, môi trường, kinh tế-xã hội…
Ủy ban sông Mekong Việt Nam cần chủ động tham gia nghiên cứu, xây dựng các đề án, chiến lược bảo đảm an ninh nguồn nước gắn với các vùng sinh thái nước ngọt, nước lợ, nước mặn, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, bảo đảm sinh kế bền vững cho người dân.