Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam phát triển trong giai đoạn hiện nay

Trong những năm qua, doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp không nhỏ vào GDP, tạo công ăn việc làm, ổn định kinh tế... Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và thế giới, doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn nhiều hạn chế về quy mô, mức độ đóng góp và chưa thực sự phát huy hết tiềm năng của mình. Bài viết làm rõ thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa, nguyên nhân cản trở phát triển và giải pháp tháo gỡ rào cản nhằm hỗ trợ phát triển khu vực này trong giai đoạn hiện nay.

Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn nhiều hạn chế về quy mô, mức độ đóng góp. Nguồn: internet

Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn nhiều hạn chế về quy mô, mức độ đóng góp. Nguồn: internet

Đặt vấn đề

Nghiên cứu giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là chủ đề thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách, Chính phủ và dư luận, bởi vai trò và đóng góp to lớn của đối tượng này đối với nền kinh tế, cũng như giải quyết các vấn đề xã hội - an sinh xã hội là rất lớn. Ở Việt Nam, trong giai đoạn 2010-2017, khu vực DN đóng góp bình quân cho ngân sách nhà nước (NSNN) khoảng 12,4%/năm, tương đương trên 60% GDP. Trong đó, DNNVV chiếm đến 98,1% tổng số DN đang hoạt động, đóng góp khoảng 45% GDP, 31% tổng thu NSNN và tạo công ăn việc làm cho hơn 5 triệu lao động. Bình quân năm giai đoạn 2012-2017, số DNNVV tăng 8,8% cao hơn mức tăng bình quân của DN lớn là 5,4%.

Tuy nhiên, trong một nghiên cứu của Ban Kinh tế Trung ương và Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (năm 2017) cho rằng, qua 30 năm đổi mới, quy mô của phần lớn các DN tư nhân (DNTN) Việt Nam vẫn chỉ là nhỏ và siêu nhỏ; hiệu suất của khu vực kinh tế này còn thấp và có sự suy giảm. Chỉ số tỷ suất hoàn vốn của các DNTN rất thấp, chỉ bằng 1/5 của DN FDI và gần 1/2 của doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Chỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của DNTN bình quân chỉ đạt 4% so với 16,3% của DN FDI và 11% của DNNN.

Về liên kết với chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam cũng chỉ ở mức 21%, trong khi tỷ lệ này ở Thái Lan là 30%, Malaysia là 46%. Chi phí đầu tư cho đổi mới khoa học công nghệ của DN Việt Nam chưa đến 0,3% doanh thu, trong khi tại Ấn Độ tỷ lệ này là 5%, Hàn Quốc là 10%, Nhật Bản là 50%... Như vậy, việc nghiên cứu thực trạng phát triển của DNNVV Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp phát triển là việc làm cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Do khu vực DNNVV có vai trò quan trọng, nên những năm qua, Việt Nam đã và đang nỗ lực tháo gỡ rào cản nhằm thúc đẩy khu vực DN này phát triển. Chính phủ tập trung các chính sách hỗ trợ những nội dung cụ thể: Phát huy và nâng cao hiệu quả hoạt động DNNVV, các DN đổi mới sáng tạo; Hỗ trợ đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp quốc gia; Tạo thuận lợi để các hộ và cá nhân tự nguyện liên kết hình thành DN hoặc các hình thức tổ chức hợp tác khác; Hỗ trợ và khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước; Hỗ trợ đổi mới, sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính (TTHC), tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển... Chính phủ còn ban hành nhiều chính sách về ưu đãi về thuế, tín dụng cho DN, nhất là đối với các DNNVV; tạo nguồn vốn và mặt bằng sản xuất kinh doanh; cung cấp thông tin thị trường và xúc tiến thương mại, nâng cao năng lực quản trị DN, đào tạo nghề cho lao động...

Tuy nhiên, trong thực tế, khu vực DNNVV còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Theo Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố hàng năm, trong giai đoạn 2013-2015, chi phí vay vốn ngân hàng của DNNVV thường cao hơn so với của DN lớn, khoảng 1-2%/năm; tỷ lệ chi phí không chính thức chiếm 64% đối với DN siêu nhỏ, 56% DN nhỏ và 49% DN vừa, trong khi tỷ lệ này ở các DN lớn chỉ là 30%. Chi phí không chính thức này có thể chiếm tới hơn 10% tổng doanh thu của các DN. Bên cạnh đó, các rào cản về thể chế, liên quan đến nhiều vấn đề như: Thừa nhận vai trò DNTN nói chung, pháp lý tài sản, TTHC, môi trường cạnh tranh bất bình đẳng, chất lượng đội ngũ công vụ, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của Nhà nước... là những rào cản đối với hoạt động của DNNVV Việt Nam.

So với các quốc gia trong khu vực và thế giới, DNNVV Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế như: DNNVV đa phần làm dịch vụ, chỉ khoảng 20% là hoạt động sản xuất; có tới 42% DN có doanh thu hàng năm dưới 1 tỷ đồng và 85% DN hoạt động chính thức có doanh thu dưới 2 tỷ đồng; số lượng DN tư nhân tuy tăng hàng năm nhưng quy mô bình quân của mỗi DN là không lớn. Tỷ lệ trung bình người dân/DN vẫn ở mức thấp, hiện nay tỷ lệ này ở khối các nước ASEAN là 80-100 dân, trong khi đó, ở Việt Nam bình quân 256 người dân mới có một DN.

Năng suất lao động thấp, việc thực hiện chưa đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm đi chất lượng công việc trong khu vực DNNVV, do vậy, các DN này càng rơi vào vị thế bất lợi.

Theo Báo cáo PCI 2018, có 15,8% DN cho biết, họ phải chờ hơn 1 tháng hoàn thành đầy đủ các thủ tục và giấy phép cần thiết mới có thể đi vào hoạt động. Con số này sau khi đã giảm tương đối mạnh từ 27,2% năm 2007 xuống 9,8% năm 2014, nhưng có xu hướng gia tăng trong 5 năm trở lại đây. Một chỉ tiêu khác như tỷ lệ DN phải chờ đợi trên 3 tháng mới có đủ giấy phép cần thiết đi vào hoạt động vào năm 2018 là 3%, sau khi giảm từ 6,8% xuống còn 1,92% năm 2014 và cũng đang có dấu hiệu tăng trở lại. Những TTHC trong lĩnh vực đất đai (30%), BHXH (25%), quản lý thị trường (16%)... tiếp tục là vướng mắc lớn của DN.

Ở Việt Nam, ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn chủ đạo của các DN (kể cả vốn ngắn hạn và dài hạn). Thị trường chứng khoán đang từng bước là kênh dẫn vốn dài hạn quan trọng nhất của nền kinh tế song vẫn chưa như kỳ vọng, bởi tồn tại một số hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng cung cấp nguồn lực tài chính cho DNNVV. Thị trường cổ phiếu mặc dù cải thiện về quy mô nhưng nguồn vốn đi vào khu vực kinh tế thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng chưa lớn; Thị trường TPDN phát triển nhanh, nhưng còn hạn chế về quy mô và thiếu bền vững, chủ yếu phát hành qua kênh riêng lẻ và có quy mô nhỏ, khoảng 0,71% GDP so với mức 21,7% GDP của ASEAN-5...

Nguyên nhân cản trở sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Từ thực tiễn có thể chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản cản trở sự phát triển của DNNVV Việt Nam trong thời gian qua như sau:

Một là, chi phí tài chính của khu vực DNTN nói chung ở mức cao, nhất là chi phí không chính thức. Do khó khăn tiếp cận vốn từ ngân hàng, DN phải chấp nhận sử dụng các kênh vốn có chi phí cao. Bên cạnh đó, vay vốn tại ngân hàng đòi hỏi nhiều thủ tục, tiêu tốn thời gian, công sức, chi phí và thậm chí vượt quá năng lực của DNNVV, chẳng hạn như: Yêu cầu phương án sản xuất kinh doanh, trong khi đây là điểm yếu của DNNVV. TTHC ở Việt Nam còn phức tạp, gây phiền hà cho DN trong quá trình hoạt động kinh doanh như: Thủ tục đất đai, giải phóng mặt bằng, BHXH, đăng ký kinh doanh/đầu tư...

Hai là, yêu cầu tài sản thế chấp cho các khoản vay hay hạn mức tín dụng của DN. Nhằm đảm bảo an toàn, các tổ chức tín dụng (TCTD) thường đưa ra các yêu cầu thế chấp chặt chẽ, trong khi các DNNVV lại hạn chế về tài sản thế chấp. Nhiều DNNVV có tài sản nhưng không có đủ giấy tờ hợp pháp, hợp lệ để làm các thủ tục thế chấp như: DN được giao đất sử dụng nhưng chưa được cấp giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đất, hay DN có hợp đồng thuê đất trả tiền hàng năm nhưng lại không được thế chấp đất đai để vay vốn ngân hàng. Một số tài sản vô hình của DN chưa có cơ chế/hướng dẫn cụ thể cho phép được sử dụng làm tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng như: Nhãn hiệu DN, tài sản sở hữu trí tuệ...

Ba là, sự mất cân đối của thị trường tài chính. Trong bối cảnh, thị trường vốn còn nhỏ, chậm phát triển với quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu và trái phiếu, nhất là TPDN đều thấp hơn so với hầu hết các nước trong khu vực và các nước cùng mức thu nhập. Điều này làm cho việc tiếp cận vốn từ các nhà đầu tư trở nên khó khăn. Mạng lưới hệ thống các TCTD phân bố chưa đều, chưa hợp lý, tập trung chủ yếu ở các thành phố, đô thị lớn, trong khi ở các vùng nông thôn lại rất ít, thậm chí, có vùng còn không có sự hiện diện của ngân hàng…

Bốn là, bất bình đẳng trong cạnh tranh, hỗ trợ giữa DNNVV với DNNN. Tỷ lệ tín dụng của khu vực DNNN và khách hàng cá nhân chiếm tỷ trọng cao, lấn át khu vực DNTN. Các DNNN thường dễ tiếp cận vốn hơn, do được Nhà nước bảo lãnh, dễ tiếp cận tín dụng ưu đãi và đất đai hơn, trong khi đó, nhiều DNNN lại làm ăn kém hiệu quả. Đáng nói hơn, là nguồn lực kinh tế vẫn chưa dịch chuyển tích cực sang khu vực tư nhân, khu vực DN này khó tiếp cận nguồn vốn ODA.

Năm là, sản phẩm dịch vụ cho DNNVV chưa đa dạng, phong phú, trình độ cán bộ các TCTD còn hạn chế; các TCTD gặp nhiều khó khăn trong khâu thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh và trong việc xử lý tài sản đảm bảo, thu hồi nợ vay; các TCTD chưa chú trọng công tác truyền thông, quảng bá rộng rãi về sản phẩm dịch vụ của mình đến DNNVV và ở các khu vực nông thôn.

Sáu là, năng lực của các DNNVV còn hạn chế, hoạt động kém hiệu quả; nhiều DNNVV không chịu công khai thông tin, tình hình tài chính công ty, không minh bạch, thiếu trung thực trong quản lý tài chính gây khó khăn cho ngân hàng thẩm định, đánh giá năng lực tài chính và hiệu quả hoạt động kinh doanh...

Giải pháp tháo gỡ rào cản phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Nhằm tìm cách tháo gỡ rào cản phát triển DNNVV Việt Nam, trong thời gian tới cần chú trọng một số nội dung sau:

Thứ nhất, thay đổi tư duy, thừa nhận vai trò của DN tư nhân, trên cơ sở xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng với DN lớn; cải cách TTHC, đặc biệt là về đất đai, thuế, đăng ký giao dịch bảo đảm, xử lý tài sản đảm bảo...; tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm trong hành chính công, cải cách tiền lương và cách thức đánh giá cán bộ nhằm giảm thiểu tệ nạn tham nhũng, nâng cao hiệu quả bộ máy công vụ liên quan, góp phần giảm chi phí phi chính thức cho DN; rà soát và sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng, Luật các TCTD, cơ chế phối hợp các quỹ bảo lãnh tín dụng, pháp lý tài sản; cải cách pháp lý liên quan đến thụ lý, xử lý các vụ án kinh tế theo tiêu chí nhanh chóng, minh bạch, giảm thiểu rủi ro hình sự hóa; Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính; Tăng cường kiểm soát nợ xấu của các TCTD...

Thứ hai, Luật Hỗ trợ DNNVV năm 2017 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, song quy định về hỗ trợ tiếp cận vốn còn khá khiêm tốn, thiếu cơ sở triển khai trong thực tế. Do đó, trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu các chính sách hỗ trợ cho DN hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, các TCTD cần tăng cường thực hiện hiệu quả các văn bản điều hành của Chính phủ như: Nghị quyết số 35-NQ/CP về hỗ trợ và phát triển DN đến 2020; Nghị định số 34/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV; Nghị định số 39/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển DNNVV...

Thứ ba, đa dạng hóa các kênh tiếp cận vốn cho DNNVV. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong thực tế DNNVV tiếp cận vốn từ nhiều nguồn khác nhau nhưng tiếp cận vốn từ các TCTD vẫn là kênh chính và quan trọng đối với DNNVV. Do vậy, để tháo gỡ khó khăn, Chính phủ cần tăng cường hỗ trợ việc cung cấp thông tin, tình hình hoạt động và khả năng chi trả của DN, từ đó, khuyến khích các TCTD liên kết tạo nên một hệ thống dữ liệu về DNNVV, cũng như minh bạch các tiêu chí cần thiết về tiếp cận tín dụng cho DN. Đồng thời, có cơ chế khuyến khích đối với các TCTD thực hiện hiệu quả hỗ trợ tín dụng cho DNNVV; Khuyến khích các DNTN tham gia vào hỗ trợ DNNVV như: Cho thuê tài chính, bao thanh toán.... Nghiên cứu hình thành thị trường chứng khoán chuyên biệt cho DNNVV, đưa vào vận hành thị trường mua bán nợ; hình thành mạng lưới liên kết giữa DN lớn với DNNVV.

Thứ tư, Chính phủ chỉ đạo xây dựng đề án về xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thống kê về DNNVV, cũng như xếp hạng DN và cơ chế bảo lãnh tín dụng đi vào thực tế. Hiện nay, đối với thị trường vốn cho DNNVV, minh bạch thông tin và đánh giá khả năng chi trả của DNNVV đang là hạn chế, dẫn đến các TCTD e ngại trong quyết định cho vay, hoặc gia tăng yêu cầu hồ sơ tín dụng của DNNVV. Trong khi, DNNVV lại thiếu các công cụ để chứng minh khả năng chi trả vốn vay.

Thứ năm, Chính phủ cần có chế tài yêu cầu và kiểm tra, giám sát các địa phương trong thực hiện đầy đủ và hiệu quả chính sách hỗ trợ DNNVV. Hiện nay, ở Việt Nam, nhiều địa phương dành sự quan tâm nhiều hơn đến DN FDI, DNNN, tuy nhiên, việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNNVV ở mỗi địa phương lại khác nhau, gây nên sự méo mó trong nền kinh tế, phân tán nguồn lực và không đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ sáu, ở Việt Nam, loại hình DN gia đình, những DN hoạt động trong khu vực phi chính thức của xã hội thuộc quy mô DN siêu nhỏ, nhỏ và vừa đang chiếm tỷ lệ khá lớn. Đây là loại hình đã tồn tại lâu nay, đã được nhận thức rõ bản chất vấn đề, nhưng chưa được quan tâm đúng mức để đưa khu vực này vào quỹ đạo chung của cộng đồng DN. Chính sách hỗ trợ của Nhà nước chỉ áp dụng cho DNNVV, có đăng ký chính thức với các cơ quan chức năng, do đó, để tính được các DN này, cũng như khuyến khích các loại hình DN này hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước, Chính phủ cần rà soát, nghiên cứu và thực hiện cắt giảm TTHC, hỗ trợ pháp lý cho khu vực này sớm gia nhập thị trường một cách chính thức.

Tài liệu tham khảo:

1. Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Báo cáo thị trường tài chính: http://nfsc.gov.vn/vi/baocao-giamsat/?bao-cao-giam-sat=bao-cao-giam-sat-tttc;

2. VCCI, Báo cáo năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2018, http://pcivietnam.org/danh-muc-du-lieu/du-lieu-pci/;

3. Lê Anh Văn, Đổi mới chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để nâng cao năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, 2017;

4. Phùng Thế Đông: Giải pháp hỗ trợ tiếp cận vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Tạp chí Công Thương, Số 6, Tháng 4/2019, tr.197-204;

5. Phùng Thế Đông, Nguyễn Thị Hồng Nhâm, Đa dạng hóa nguồn vốn chính thức cho doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 10 (692), tháng 4/2019, tr.47-49;

6. Báo điện tử Tổ quốc (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), 7 năm nhìn lại đóng góp của doanh nghiệp đối với nền kinh tế, http://toquoc.vn/7-nam-nhin-lai-dong-gop-cua-doanh-nghiep-doi-voi-nen-kinh-te-2018 1015115832212.htm;

7. European Commission. Entrepreneurship and Small and medium-sized enterprises, URL: https://ec.europa.eu/growth/smes/business-friendly-environment/sme-definition_en.

TS. Phùng Thế Đông - Học viện Chính sách và Phát triển

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 10/2019

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-viet-nam-phat-trien-trong-giai-doan-hien-nay-314736.html