Hoàn thiện thể chế, minh bạch thị trường lao động ngoài nước
Tình trạng nhiều người lao động ra nước ngoài làm việc chưa được tiếp cận thông tin đầy đủ, chính xác, phải trả chi phí 'ngầm' lớn; một số doanh nghiệp làm ăn thiếu chuyên nghiệp, cùng với đó là những quy định pháp luật chưa theo kịp thực tiễn... đã khiến hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng gặp không ít khó khăn.
Tại Hội nghị gặp gỡ, đối thoại và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp (DN) hoạt động trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng do Bộ Nội vụ tổ chức sáng nay (30/10), các đại biểu nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện thể chế, siết chặt kỷ cương, minh bạch hóa thông tin để bảo vệ quyền lợi người lao động và làm trong sạch thị trường xuất khẩu lao động.
Nhận diện những vướng mắc, bất cập
Theo Cục quản lý lao động ngoài nước (Bộ Nội vụ), trong 10 tháng đầu năm 2025, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 121.190 lao động, đạt 93,2% kế hoạch năm 2025. Trong đó, các thị trường trọng điểm, truyền thống vẫn duy trì số lượng tiếp nhận lao động ở mức ổn định. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập tương đối ổn định và cao hơn nhiều so với làm việc trong nước cùng ngành nghề, trình độ. Bình quân hàng năm người lao động gửi về nước khoảng 6,5 - 7 tỷ USD, đóng góp đáng kể vào nguồn ngoại tệ của đất nước, tăng tích lũy và cải thiện đời sống người lao động và gia đình.
Tuy nhiên, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng vẫn còn gặp không ít khó khăn, bất cập, đến từ rào cản pháp lý, từ ý thức tuân thủ pháp luật của cả doanh nghiệp (DN) và người lao động…
Theo ông Vũ Đức Thuận, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế- Bộ Nội vụ, hệ thống pháp luật hiện hành chưa theo kịp với tốc độ biến động nhanh chóng, đa dạng của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh di cư lao động quốc tế đang thay đổi sâu sắc. Pháp luật của các quốc gia và vùng lãnh thổ tiếp nhận lao động Việt Nam thường xuyên có sự điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu mới về an ninh, thị trường lao động và chính sách nhập cư.
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có các cơ chế phản ứng nhanh, linh hoạt và sự liên kết nhất quán với pháp luật quốc gia, vùng lãnh thổ nơi tiếp nhận lao động. Có một số thủ tục bên nước ngoài yêu cầu DN, người lao động phải thực hiện với cơ quan quản lý của Việt Nam tuy nhiên phía Việt Nam chưa kịp thời điều chỉnh pháp luật tương ứng. Việc này vô hình trung dẫn đến một số trường hợp DN và người lao động gặp khó khăn trong tiếp cận thị trường mới hoặc thực hiện nghĩa vụ pháp lý liên quan đến di cư lao động ở nước sở tại.
Ngoài ra, một số văn bản pháp luật nền tảng, đặc biệt là Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (gọi tắt là Luật số 69) vẫn còn khoảng cách nhất định so với tinh thần cải cách, phát triển trong kỷ nguyên mới.

Quang cảnh hội nghị. Ảnh: PV
Nêu một số thách thức hiện nay, đại diện Trung tâm lao động ngoài nước (Bộ Nội vụ) cho biết, dù hoạt động theo mô hình phi lợi nhuận hay DN dịch vụ, các DN đều đang đối mặt với những khó khăn chung, đó là sự cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia phái cử lao động trong khu vực như Philippines, Indonesia, Campuchia....Các quốc gia này hiện đang có các chính sách hỗ trợ về đào tạo ngoại ngữ, kỹ năng nghề đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, mặc dù người lao động Việt Nam được đánh giá cần cù, thông minh, nhanh chóng tiếp thu công việc và hòa nhập vào đời sống xã hội của nước tiếp nhận, tuy nhiên trình độ ngoại ngữ, tác phong, ý thức kỷ luật, chấp hành hợp đồng lao động của người lao động là vấn đề mà nhiều công ty tiếp nhận lao động có ý kiến.
Người lao động đứng giữa “ma trận” thông tin
Tại hội nghị, ý kiến từ nhiều Bộ, ngành, cơ quan chức năng và đại diện các DN dịch vụ xuất khẩu lao động cũng phản ánh tình trạng thu phí quá cao là một trong những nguyên nhân khiến người lao động ra ngoài làm việc bất hợp pháp. Đây là vấn đề nhức nhối, tồn tại cố hữu, đến nay vẫn chưa khắc phục triệt để.
Có thể nói, người lao động đang đứng giữa “ma trận” thông tin, không biết thông tin nào chính thống, thông tin nào là giả mạo; không biết đâu là DN “ma”, DN nào được cơ quan chức năng cấp phép hợp pháp… dẫn đến nhiều người lao động bị lừa gạt hoặc phải trả mức phí quá cao để được đi làm việc tại nước ngoài. Các ý kiến đề nghị cần tăng cường công tác quản lý và kiểm soát hiệu quả, nhằm tạo thuận lợi cho cả DN và người lao động.
Đại tá Nguyễn Huy Khích, Phó Cục trưởng Cục An ninh chính trị nội bộ (Bộ Công an) cho biết, nhiều người đi xuất khẩu lao động là người yếu thế, có hoàn cảnh khó khăn, nhưng họ lại phải trả một khoản chi phí rất cao là một bất cập lớn. Nguyên nhân có thể là họ chưa tiếp cận được nguồn thông tin chính xác. Các trang tin chính thức của các DN được cấp phép thì người lao động chưa biết hoặc ít biết; còn thông tin đăng tải trên các tài khoản mạng xã hội, của những cá nhân, tổ chức chưa hoặc không được cấp phép lại đến với người lao động nhiều hơn, cũng có thể qua con đường truyền miệng…
Qua điều tra một số vụ án, cơ quan công an phát hiện không ít DN đưa người đi xuất khẩu lao động để ngoài sổ sách số tiền rất lớn. Có nhiều DN chưa được cấp phép xuất khẩu lao động nhưng đã đứng ra tuyển nguồn, làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức để tuyên truyền cho hoạt động xuất khẩu lao động.
Cũng theo Đại tá Nguyễn Huy Khích, hiện nay, tình trạng người Việt Nam ở nước ngoài (trong đó có người lao động đi làm việc theo hợp đồng) vi phạm pháp luật nước sở tại rất đáng lo ngại, làm xấu hình ảnh của lao động Việt Nam, gây ảnh hưởng tới một số DN xuất khẩu lao động có uy tín và hình ảnh quốc gia.
Thời gian qua, Bộ Công an đã khởi tố nhiều vụ án, chỉ đạo công an các địa phương điều tra nhiều vụ án liên quan tới hoạt động xuất khẩu lao động. Các tội danh bị khởi tố chủ yếu là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, xuất cảnh trái phép, vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, nhận hối lộ, làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức…. Từ năm ngoái đến nay, đã khởi tố hàng trăm vụ án liên quan tới xuất khẩu lao động.

Đại tá Nguyễn Huy Khích phát biểu tại hội nghị. Ảnh: PV
Đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng trên, Đại tá Nguyễn Huy Khích cho rằng, ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này (đặc biệt tránh “giấy phép con” và những thủ tục nội bộ không cần thiết), cần phân cấp mạnh cho địa phương. Đồng thời, các DN phải nghiêm túc tuân thủ pháp luật, cạnh tranh lành mạnh, đưa thông tin đến người lao động một cách chính xác, minh bạch nhất, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động dễ tiếp cận nhất.
Đề xuất có Cổng thông tin quốc gia về việc làm ngoài nước
Tại hội nghị, Trung tâm lao động ngoài nước đã đề xuất Bộ Nội vụ chủ trì, xây dựng một Cổng thông tin quốc gia về việc làm ngoài nước. Cổng thông tin này sẽ là địa chỉ chính thống, duy nhất, tích hợp thông tin về tất cả các chương trình, thị trường, bao gồm cả các chương trình phi lợi nhuận và các đơn hàng, hợp đồng của các DN dịch vụ đã được cấp phép. Điều này giúp người lao động có một nơi tra cứu tin cậy, giảm thiểu các hành vi tiêu cực và tạo kênh kết nối trực tiếp, minh bạch giữa người lao động với đơn vị phái cử.
Trên cơ sở Cổng thông tin quốc gia, Trung tâm lao động ngoài nước đề nghị Bộ Nội vụ chỉ đạo Cục Quản lý lao động ngoài nước xây dựng và công bố các Bộ tiêu chuẩn tham chiếu cho từng thị trường, từng ngành nghề chính (ví dụ: điều dưỡng tại Nhật/Đức, nông nghiệp tại Úc, sản xuất chế tạo tại Hàn Quốc...). Các tiêu chuẩn này bao gồm: khung độ tuổi phổ biến, yêu cầu tối thiểu về trình độ/ngoại ngữ, mức lương cơ bản, điều kiện làm việc cơ bản. Việc này giúp người lao động tự đánh giá, định hướng và có cơ sở để so sánh, lựa chọn.
Đánh giá cao các ý kiến phát biểu tâm huyết, sát thực tiễn của đại diện các cơ quan quản lý cũng như các DN, phát biểu kết luận, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng nêu một số giải pháp trọng tâm thời gian tới. Trong đó, giải pháp mang tính đột phá là hoàn thiện thể chế và cải cách hành chính, quyết liệt phòng chống tham nhũng, tiêu cực.
Bộ Nội vụ đang chỉ đạo khẩn trương để trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định 112/2021/NĐ-CP ngay trong tháng 10 này. Tháng 11/2025, Bộ sẽ tiến hành sửa đổi Thông tư số 21/2021/TT-LĐTBXH và Thông tư số 02/2024/TT-BLĐTBXH, sau đó triển khai xây dựng Chiến lược đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng giai đoạn từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thứ trưởng nhấn mạnh, một môi trường pháp lý minh bạch là điều kiện tiên quyết để DN phát triển lành mạnh. DN nào làm tốt, tuân thủ pháp luật, sẽ được tạo mọi điều kiện thuận lợi; ngược lại, cơ quan chức năng sẽ tăng cường chế tài, xử phạt nghiêm minh và công khai danh sách các DN vi phạm để làm trong sạch hóa thị trường.
Cục Quản lý lao động ngoài nước phối hợp với các cơ quan liên quan tăng cường đàm phán với các đối tác, tổ chức tiếp nhận tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, DN dịch vụ trong việc tiếp cận thị trường lao động; cắt bỏ các điều kiện, thủ tục không phù hợp, gây bất lợi cho người lao động và DN, bảo đảm công khai, minh bạch và công bằng.
Ông Vũ Đức Thuận, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế- Bộ Nội vụ cho biết, hiện nay, Bộ Nội vụ đã đề xuất sửa đổi Luật số 69 trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI, đồng thời đang lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp về Hồ sơ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 112/2025/NĐ-CP. Việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật nói riêng nêu trên cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được thực hiện theo định hướng quán triệt sâu sắc, bám sát chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. Cùng với đó, rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật nhằm xác định rõ luật công (quản lý nhà nước) và luật tư (quan hệ dân sự), đặc biệt trong các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp, người lao động và cơ quan nhà nước. Đối với những chế định khác, có tính rủi ro thấp, DN, người lao động đã tạo thành thói quen tuân thủ pháp luật, đạo đức nghề nghiệp thì có thể nghiên cứu bãi bỏ hoặc đơn giản hóa, chuyển từ “tiền kiềm” sang “hậu kiểm”, tạo thuận lợi cho cả DN và người lao động. Đồng thời, thiết lập cơ chế đánh giá, tiếp nhận phản hồi của người dân, DN, phản biện xã hội theo hướng minh bạch, công khai để tăng cường tính giám sát của người dân.











