Hội Dầu khí Việt Nam góp ý cho Dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030

Chiều 30/9/2025, Trung ương Hội Dầu khí Việt Nam (Hội DKVN) tổ chức cuộc họp lấy ý kiến đối với Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030.

Tham dự cuộc họp có TS. Nguyễn Quốc Thập – Chủ tịch Hội DKVN; Anh hùng Lao động, TS. Nguyễn Hùng Dũng – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội; TS. Phan Ngọc Trung – Trưởng Ban Tư vấn phản biện; cùng lãnh đạo các ban, văn phòng, các hội thành viên (tham dự trực tiếp và trực tuyến).

Toàn cảnh cuộc họp

Toàn cảnh cuộc họp

Dự thảo nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030 được Bộ Công Thương chủ trì soạn thảo, trên cơ sở Nghị quyết số 70-NQ/TW (20/8/2025) của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến 2030, tầm nhìn 2045, và chỉ đạo của Thủ tướng tại Văn bản 8617/VPCP-CN (12/9/2025).

TS. Nguyễn Quốc Thập: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội hiện chưa phản ánh đầy đủ tinh thần Nghị quyết 70.

TS. Nguyễn Quốc Thập: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội hiện chưa phản ánh đầy đủ tinh thần Nghị quyết 70.

Phát biểu tại cuộc họp, TS. Nguyễn Quốc Thập cho biết, hiện nay, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 70 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, được coi là một nghị quyết chuyên đề quan trọng. Nghị quyết này nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn trong triển khai Quy hoạch năng lượng quốc gia, bảo đảm an ninh năng lượng trong giai đoạn mới, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Thông thường, sau khi có nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội cần ban hành một nghị quyết chuyên đề để cụ thể hóa, làm cơ sở cho các bộ, ngành xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ví dụ, với Nghị quyết 57 về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 193/2025/QH15 để quán triệt tinh thần này, làm căn cứ điều chỉnh Luật Khoa học và Công nghệ.

Đối với Nghị quyết 70, Quốc hội cũng dự kiến ban hành một nghị quyết chuyên đề. Điểm khác biệt là Quốc hội giao Bộ Công Thương làm cơ quan đầu mối xây dựng dự thảo nghị quyết này. Hiện Bộ Công Thương đã đưa ra dự thảo, lấy ý kiến rộng rãi từ các tập đoàn, doanh nghiệp và xã hội.

Tuy nhiên, qua xem xét, có nhiều ý kiến cho rằng dự thảo chưa phản ánh đầy đủ tinh thần Nghị quyết 70.

Cụ thể như, mặc dù mang tên “nghị quyết về năng lượng quốc gia”, nhưng nội dung chủ yếu tập trung vào điện, chưa bao quát các lĩnh vực khác như dầu khí, than, năng lượng tái tạo phi điện (sinh khối, hydrogen...), hay tiết kiệm năng lượng. Một số vấn đề trọng tâm của Nghị quyết 70, như cơ chế giá truyền tải điện, thị trường điện cạnh tranh, hay việc xóa bỏ độc quyền trong bán lẻ điện không được đề cập trong dự thảo. Đây đều là những điểm nghẽn lớn của ngành năng lượng hiện nay. Phạm vi điều chỉnh trong dự thảo quá hẹp, chủ yếu xoay quanh quy hoạch điện và cấp phép dự án ở cấp tỉnh. Điều này dẫn đến nguy cơ nghị quyết, cũng như việc hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật liên quan để triển khai thực hiện sẽ không đáp ứng được yêu cầu thực tế.

TS. Nguyễn Hùng Dũng góp ý tại cuộc họp

TS. Nguyễn Hùng Dũng góp ý tại cuộc họp

Tại cuộc họp, các ý kiến cơ bản thống nhất cần thiết ban hành Nghị quyết về các cơ chế, chính sách đặc thù tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030. Tuy nhiên, các đại biểu cũng thẳng thắn chỉ ra những vấn đề bất cập tại Dự thảo Nghị quyết như: Nếu nghị quyết chỉ tập trung vào điện, cần đặt lại tên cho chính xác, ví dụ: “Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2026–2030”. Hoặc: “Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2026–2030”. Nếu vẫn giữ tên “Nghị quyết năng lượng quốc gia”, thì cần bổ sung các lĩnh vực khác ngoài điện để phản ánh đúng tinh thần toàn diện của Nghị quyết 70.

Ngoài ra, dự thảo hiện nay còn những điểm cần chỉnh sửa, như: Cách đặt vấn đề trong Tờ trình chưa rõ ràng, khó hiểu; Giải thích từ ngữ chưa đầy đủ, nhiều chỗ mơ hồ; Chưa có cơ chế xử lý trường hợp dự án điện đi qua nhiều tỉnh, trong khi thực tế nhiều dự án (như điện gió ngoài khơi, đường dây 500kV) có phạm vi liên tỉnh.

TS. Phan Ngọc Trung góp ý tại cuộc họp

TS. Phan Ngọc Trung góp ý tại cuộc họp

Về thẩm quyền phê duyệt dự án truyền tải, các đại biểu cho rằng, với các dự án truyền tải điện liên tỉnh, liên vùng, thủ tục phê duyệt do Bộ Công Thương thực hiện sẽ phức tạp hơn nhiều so với các dự án trong phạm vi một tỉnh. Thực tế, khi địa phương đã đồng ý nhưng vẫn phải xin lại Bộ Công Thương thì dẫn đến chồng chéo, kéo dài thời gian. Do đó, cần có cơ chế phân cấp rõ ràng: nếu dự án chỉ trong một tỉnh thì tỉnh quyết định, còn liên tỉnh, liên vùng thì Bộ Công Thương phê duyệt.

Về hợp đồng BOT và bảo lãnh Chính phủ: Các dự án BOT trước đây đang bị “tắc nghẽn” do vấn đề bảo lãnh vay vốn và phân chia rủi ro. Hiện Chính phủ không còn bảo lãnh toàn diện như trước, chỉ hỗ trợ gián tiếp ở mức 30% doanh thu chuyển đổi ngoại tệ. Phần còn lại (70%) để doanh nghiệp tự lo, nhưng điều này khó khả thi, khiến nhà đầu tư e ngại. Cơ chế bảo lãnh chưa thực sự tháo gỡ điểm nghẽn lớn nhất: rủi ro tỷ giá và khả năng chuyển đổi ngoại tệ.

Về cơ chế đặc thù cho điện khí LNG: Dự thảo quy định áp dụng cơ chế hợp đồng bao tiêu sản lượng tối thiểu đến năm 2031, với mức 75% sản lượng điện bình quân nhiều năm. Tuy nhiên, chưa làm rõ các mốc pháp lý về “vận hành thương mại” để được thanh toán, dễ dẫn đến tranh cãi như đã từng xảy ra với điện mặt trời.

Cũng tại cuộc họp, nhiều ý kiến cho rằng dự thảo cơ chế mới về điện lực còn một số điểm chưa rõ ràng, cần điều chỉnh để thu hút đầu tư.

Trước hết, vấn đề thanh toán và ngoại tệ vẫn là rào cản lớn khi giá điện tính bằng USD nhưng thanh toán bằng VND, trong khi cơ chế bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ chỉ ở mức 30% chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư quốc tế.

Về sản lượng điện tối thiểu, cần quy định gọn và rõ: dự án phải duy trì sản lượng dài hạn không thấp hơn 75% bình quân nhiều năm, đây là cơ sở để đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng.

Đối với thời hạn áp dụng cơ chế, thay vì cách diễn đạt gây khó hiểu, nên quy định “áp dụng trong thời gian trả nợ gốc và lãi vay, nhưng tối đa 15 năm kể từ khi vận hành thương mại”.

Riêng với khảo sát điện gió ngoài khơi, cần có đề án điều tra cơ bản cấp quốc gia, tương tự khảo sát địa chất dầu khí, làm nền dữ liệu chung. Sau đó, từng nhà đầu tư sẽ tự chi trả khảo sát cho dự án cụ thể, với sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.

Các đại biểu tham gia góp ý vào Dự thảo Nghị quyết

Các đại biểu tham gia góp ý vào Dự thảo Nghị quyết

Về Điều 11 – Chủ trương đầu tư dự án điện gió ngoài khơi, có nhiều ý kiến cho rằng quy định hiện nay còn bất cập, chưa thống nhất với các luật liên quan.

Trước hết, cần làm rõ khái niệm “ngoài khơi”. Theo Luật Tài nguyên và Môi trường biển, vùng biển trong phạm vi 6 hải lý thuộc quyền quản lý của tỉnh. Tuy nhiên, các dự án điện gió ngoài khơi có thể nằm ở vị trí xa hơn 6 hải lý, khi đó lại không thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của địa phương. Việc giao cho UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư trong những trường hợp này là chưa phù hợp, dễ phát sinh mâu thuẫn.

Thực tế, nhiều dự án điện gió có phạm vi trải rộng, có thể liên quan đến từ hai đến ba tỉnh, hoặc đặt trạm thu gom điện ở tỉnh này trong khi khu vực tua-bin lại thuộc vùng biển tỉnh khác. Điều này sẽ gây khó khăn trong xác định thẩm quyền phê duyệt và phân chia trách nhiệm, lợi ích giữa các địa phương. Do đó, thẩm quyền quyết định các dự án điện gió ngoài khơi nên thuộc cấp bộ hoặc Chính phủ, cụ thể là Bộ Công Thương hoặc Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Địa phương chỉ nên tham gia với vai trò phối hợp, lấy ý kiến, đặc biệt liên quan đến quốc phòng – an ninh, an toàn biển.

Một số ý kiến cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải bổ sung cơ chế: Bảo đảm an ninh – quốc phòng, vì các dự án ngoài khơi liên quan trực tiếp đến vùng biển chiến lược; Khuyến khích đầu tư trong nước, thay vì chỉ chung chung như hiện nay; EVN cần công bố hợp đồng mẫu (PPA) trong một thời hạn cụ thể, tránh tình trạng chậm trễ hoặc để trách nhiệm “treo” nhiều năm. Hợp đồng mẫu phải rõ ràng, minh bạch về điều khoản, tương tự như hợp đồng dầu khí hiện nay; Xây dựng và mở dữ liệu về năng lượng tái tạo, trong đó phải có cơ chế khai thác, sử dụng cho nhà đầu tư, viện nghiên cứu và các tổ chức liên quan.

Kết luận cuộc họp, TS. Nguyễn Quốc Thập cho rằng dự thảo mới chỉ giải quyết vấn đề kỹ thuật, chưa tháo gỡ các rào cản lớn về thể chế và cơ chế mua bán điện như tinh thần Nghị quyết 70 đề ra. TS. Nguyễn Quốc Thập đề xuất cần có cơ quan độc lập giám sát việc thực hiện nghị quyết, đồng thời Quốc hội sớm ban hành Luật Năng lượng tái tạo để tạo hành lang pháp lý thống nhất, lâu dài cho phát triển điện gió ngoài khơi và năng lượng sạch.

Hội Dầu khí Việt Nam sẽ tổng hợp các ý kiến góp ý cụ thể đối với dự thảo nghị quyết để trình Bộ Công Thương. Cùng với đó, Hội sẽ tiếp tục nghiên cứu, đề xuất nhằm góp phần xây dựng nghị quyết mới tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc triển khai các dự án năng lượng tái tạo, năng lượng mới trong thời gian tới.

Huy Tùng - Nguyễn Hiệp

Nguồn PetroTimes: https://petrovietnam.petrotimes.vn/hoi-dau-khi-viet-nam-gop-y-cho-du-thao-nghi-quyet-ve-co-che-chinh-sach-phat-trien-nang-luong-quoc-gia-giai-doan-2026-2030-732926.html