Hồi sinh kỳ diệu của thương binh Nguyễn Thùy: Từ 'mâm pháo đỏ lửa' đến giảng đường Bách khoa

Cuộc đời thương binh – nhà giáo Nguyễn Thùy là hành trình vượt qua bom đạn, bệnh tật và cả cái chết để sống trọn vẹn với nghề, với người. Hai cuốn nhật ký Ghi vội trên mâm pháo không chỉ là tư liệu chiến tranh, mà còn là minh chứng cho nghị lực và nhân cách của một người lính – người thầy mẫu mực.

Đầu tháng 8/2025, tại sự kiện ra mắt sách Ngôi nhà xưa yêu dấu, Tổ chức “Trái tim người lính” tiếp nhận hai cuốn nhật ký chiến trường của thương binh – nhà giáo Nguyễn Thùy. Bộ nhật ký Ghi vội trên mâm pháo là những ghi chép sống động, chân thực về thế hệ chiến sĩ phòng không đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ.

Nguyễn Thùy sinh năm 1944 tại Chu Xá (Quang Châu, Bắc Ninh; nay thuộc Việt Yên, Bắc Giang), trong một gia đình công nông. Cha ông – cụ Nguyễn Hữu Thuyết – là người thợ bách nghệ tài hoa.

Thời kháng chiến chống Pháp, ông theo gia đình tản cư lên Yên Thế – vùng đất khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám. Hòa bình lập lại, ông trở về Bắc Ninh, theo học Trường Hàn Thuyên và bắt đầu viết thơ từ năm 1963; viết nhật ký từ 8/3/1965 đến 22/8/1968.

Gặp Phạm Tiến Duật trên trận địa Sơn La

Năm 1963, vừa học xong phổ thông, Nguyễn Thùy xung phong nhập ngũ vào bộ đội cao xạ, bảo vệ vùng trời Tây Bắc – Thượng Lào. Cuối năm 1964, ông được biên chế cùng Đại đội 3, Tiểu đoàn 24 pháo 37mm – nơi nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đang chiến đấu.

Hai người có ngoại hình rất giống nhau, đến mức sau này, trong một sự kiện ở Sơn La, nhiều cựu chiến binh đã nhầm ông với… nhà thơ Phạm Tiến Duật.

Suốt 5 năm chiến đấu, Nguyễn Thùy là pháo thủ số 2, trực tiếp đối đầu máy bay Mỹ trong hàng trăm trận. Ông coi đây là “những năm đẹp nhất cuộc đời”, được ghi lại đầy đủ trong hai cuốn nhật ký.

Cận kề cái chết tại Mường Ngà

Ngày 31/10/1967, tại Mường Ngà (Sầm Nưa, Hủa Phăn – Lào), trận địa cao xạ bị máy bay Mỹ đánh trúng, 20 chiến sĩ hy sinh tại chỗ. Nguyễn Thùy nhảy lên thay vị trí pháo thủ thì bom bi nổ ngay trên đầu, mảnh bi xuyên qua phổi, mũ sắt thủng nhiều lỗ. Đồng đội khiêng “thi thể thứ 21” đi mai táng thì phát hiện ông vẫn còn thoi thóp.

Ông mê man suốt một tuần ở Viện 951 (Lào), rồi được chuyển về Viện Quân y 5 điều trị. Cuối năm 1967, với nghị lực phi thường, ông bình phục và trở lại đơn vị.

Từ thương binh trở thành sinh viên Bách khoa

Giữa tháng 7/1968, vì không đủ sức khỏe trở lại đơn vị, Nguyễn Thùy nhận quyết định xuất ngũ về đi học tại khoa Toán Lý, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.

Nhưng năm đó, do Nguyễn Thùy nhập học muộn, nên đã phải về cơ sở của Trường Bách Khoa tại Hưng Yên học dự bị một năm. Trong cái rủi, lại có cái may, nhờ đó mà anh đã được học cùng nữ sinh viên Nguyễn Thị Cúc, một cô gái xinh đẹp, quê tại Thái Bình (cũ). Sau này, cô nữ sinh đã trở thành người vợ đảm đang và thương yêu chồng con hết mực của Nguyễn Thùy…

Khóa Toán Lý (1969–1974) có 40 sinh viên; sau năm 1972, phần lớn nhập ngũ, chỉ còn lại 14 người (gồm thương binh, con liệt sĩ và nữ). Nguyễn Thùy và Nguyễn Thị Cúc cùng học Vật lý Chất rắn dưới sự hướng dẫn của thầy Vũ Đình Cự.

Ngày 30/12/1974, họ kết hôn giản dị giữa thời chiến.

 Gia đình Nhà giáo Thương binh Nguyễn Thùy

Gia đình Nhà giáo Thương binh Nguyễn Thùy

Hạnh phúc chưa được bao lâu, do yêu cầu công tác, đôi vợ chồng trẻ đã phải xa nhau: Kỹ sư Nguyễn Thị Cúc được điều về Viện Kỹ thuật Giao thông (nay là Viện Khoa học Giao thông) và sau đó làm việc liên tục 9 năm tại đây. Còn Kỹ sư Nguyễn Thùy được giữ lại Trường Bách khoa làm giảng viên bộ môn Vật lý đại cương, kiêm Phó Bí thư Đoàn trường.

Với tinh thần nhiệt huyết của một người lính, Phó Bí thư Nguyễn Thùy đã “tiếp lửa” cho các sinh viên, đưa phong trào Đoàn của Trường Đại học Bách Khoa lên một tầm cao mới. Họ trực tiếp, hăng hái tham gia lao động ở rất nhiều các công trình công cộng và hoạt động cộng đồng sôi nổi. Sinh viên Bách khoa hồi ấy, do Phó Bí thư Đoàn trường Nguyễn Thùy dẫn đầu, đã tham gia đào đắp các công trình: Đường Thanh niên, sông Lừ, sông Sét, hồ Bẫy Mẫu, hồ Thành Công, hồ Thủ Lệ…

Nhưng cũng chính thời gian này, vết thương cũ đã tái phát, những mảnh đạn trong sọ não bắt đầu hành hạ Nguyễn Thùy. Anh thường xuyên bị động kinh, lăn quay ra đường bất tỉnh. Lãnh đạo Trường Đại học Bách khoa họp bàn, thống nhất đề nghị với Viện Kỹ thuật Giao thông, xin cho chị Nguyễn Thị Cúc về công tác tại Trường Bách Khoa để tiện chăm sóc sức khỏe cho chồng…

Năm 1982, Nguyễn Thùy được bổ nhiệm làm Phó phòng Quản lý Sinh viên Trường Đại học Bách khoa. Đây là cơ quan mới thành lập, được tách ra từ Phòng Tổ chức Cán bộ. Cùng với đồng sự Lê Ngọc Hiển, Nguyễn Thùy đã giúp lãnh đạo Nhà trường giải quyết rất nhiều vụ việc cụ thể, liên quan đến mọi mặt đời sống và học tập của sinh viên Bách Khoa hồi đó. Phòng Quản lý Sinh viên rất có uy tín với Đảng ủy và nhiều thế hệ Lãnh đạo Nhà trường.

Ca phẫu thuật sinh tử tại Viện Quân y 108

Từ năm 1989, những lần động kinh và ngất xỉu của Thương binh Nguyễn Thùy cứ tăng dần theo ngày tháng. Đỉnh điểm là một lần Nguyễn Thùy sốt mê man, gia đình đưa anh đi cấp cứu tại bệnh viện Bạch Mai, nằm ở phòng cấp cứu mấy ngày vẫn không tỉnh. Các bác sĩ chọc tủy sống, thấy màu vàng khè và kết luận là Nguyễn Thùy đã bị viêm màng não. Phải điều trị hơn 10 ngày kháng sinh liều cao, các đồng nghiệp trong trường đến thăm không ai nhận ra, bởi khuôn mặt hốc hác và thân hình gày gò của anh.

Khi chuyển sang Viện 108, phim chụp cho thấy 4 dị vật trong sọ: 3 mảnh đạn nhọn và một mảnh kim loại, kèm ổ áp xe lớn bằng quả trứng vịt.

Ngày 22/7/1993, ca mổ kéo dài gần nửa ngày, hàng chục đồng nghiệp của ông ngồi kín hành lang Bệnh viện 108 chờ tin.

Thời gian kéo dài cả buổi sáng, căng thẳng, lo lắng và hồi hộp. Gần trưa, bác sĩ Khánh mang ra một cái hộp nhỏ, lót giấy chỉ vào 4 dị vật dính máu vừa được lấy ra trong đầu Thương binh Nguyễn Thùy. Chúng gồm 2 mảnh kim loại sắc nhọn và 2 mảnh xương vỡ từ nhiều năm trước, găm vào hộp sọ, đã bị vôi hóa. Đặc biệt, là cái túi áp xe mủ to hơn quả trứng vịt, có 2 cuống, khiến ai nhìn cũng thấy ghê sợ.

Khoảng 14 giờ chiều cùng ngày, tại phòng hậu phẫu Nguyễn Thùy đã tỉnh lại. Câu đầu tiên anh hỏi vợ mình là: “Đã làm giỗ ông chưa?” Khiến chị Cúc mừng rơi nước mắt.

Chưa kịp vui mừng, 4 ngày sau ông nhiễm trùng não thất, sốt 41 độ, nguy cơ tử vong rất cao. Gia đình phải mua biệt dược Claforan – loại thuốc quý hiếm thời đó. Mỗi ngày chi phí điều trị lên tới 160.000 đồng – tương đương gần 1/3 chỉ vàng.

Nhưng kỳ diệu thay, sau 33 ngày “chết đi sống lại”, ông vượt qua.

Khi vết mổ lại rỉ mủ, bác sĩ từng đề nghị mổ lại, nguy cơ tử vong lớn. Gia đình xin điều trị bảo tồn bằng kháng sinh. 7 ngày sau, vết thương khô dần – ông lại thoát chết.

Trước khi xuất Viện Quân y 108, các bác sĩ khuyên gia đình nên đưa Nguyễn Thùy đi khám để xác định lại mức độ thương tật. Kể từ ngày bị thương, anh vẫn đang hưởng tiêu chuẩn Thương binh 2/4, mất sức 67% vĩnh viễn.

Nhưng sau khi phẫu thuật lại sọ não, ai cũng bảo Nguyễn Thùy có đủ căn cứ đề nghị cơ quan chức năng nâng cấp thương tật là Thương binh nặng, được hưởng tiêu chuẩn có người chăm sóc riêng và Nhà nước nuôi suốt đời. Nhưng Nguyễn Thùy đã gạt đi: “Mình không chết, là may mắn hơn nhiều người khác rồi”!

Về nhà, ông tập “vẫy tay chữa bệnh” theo Đạt Ma dịch cân kinh, mỗi ngày 13.000 lần. Da dẻ như “lột xác”, cơ thể phục hồi nhanh chóng.

Vượt qua “Đại hạn tuổi 49” không chết, ngày 15 tháng 10 năm ấy, Nguyễn Thùy bắt đầu đi làm lại ở Trường Đại học Bách Khoa. Nếu không nói, thì không ai biết rằng anh vừa qua cuộc phẫu thuật sọ não. Cơ thể anh đã phục hồi và trở lại bình thường, khỏe như hồi làm cán bộ Đoàn trường. Nguyễn Thùy tiếp tục công tác cho tới năm 61 tuổi mới nghỉ hưu…

Điều kỳ lạ nữa là năm nay dù đã bước qua tuổi 80 và hiện trong não người Thương binh Nguyễn Thùy, dù đã qua mấy lần phẫu thuật, vẫn còn một viên bi từ bom Mỹ năm xưa, nhưng trí nhớ lại không hề giảm sút. Ông vẫn còn nhớ được hàng trăm số điện thoại của bạn bè và người thân.

Có một ngôi nhà hạnh phúc ở tuổi xế chiều

Vợ chồng ông bà Nguyễn Thùy – Nguyễn Thị Cúc kết hôn tháng 12/1974. Đến tháng 2/1976, họ sinh con gái đầu lòng là Nguyễn Thái Hà, có bằng Tiến sĩ Kỹ thuật điện tử, hiện là Giảng viên của Đại học Bách khoa Hà Nội. Tháng 10/1978 họ sinh con gái thứ 2 là Nguyễn Thị Thu Phương, là Thạc sĩ Điện tử Viễn thông hiện công tác ở Bộ Khoa học và Công nghệ (Bộ Thông tin và Truyền thông cũ). Tháng 11/1982, sinh con gái thứ ba là Nguyễn Thu Vân, sau khi tốt nghiệp Khóa 45 của Đại học Bách Khoa, đã ở lại trường làm Giảng viên và năm 2017 đã lấy bằng Tiến sĩ Kỹ thuật Y sinh bên Australia.

 Vợ chồng Nhà giáo Nguyễn Thùy – Nguyễn Thị Cúc

Vợ chồng Nhà giáo Nguyễn Thùy – Nguyễn Thị Cúc

Để giúp các con mình học tập tốt, từ năm 1991 bà Nguyễn Thị Cúc đã tự tổ chức Lớp học thêm với quy mô nhỏ và luyện thi ngay tại nhà. Bà mời các thầy giỏi, có uy tín trong trường về giảng dạy. Tiếng lành đồn xa, nhiều bạn bè đồng nghiệp cũng gửi con cháu đến học. Nhờ thế, các con cháu của ông bà đều học giỏi, khi đi Đại học đều đỗ điểm cao, trúng tuyển nhiều trường.

Về kinh tế cũng có thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống gia đình. Sau 15 năm tổ chức lớp dạy thêm tại nhà, khi các con đã trưởng thành, bà Cúc cũng thông báo giải tán lớp học này. Để có tiền trợ giúp vợ con, Thương binh Nguyễn Thùy đã dành thời gian buổi tối cuốn dây biến thế cho nhà trường. Ông miệt mài làm trong 10 năm liền, từ năm 1984 đến năm 1993, khi đổ bệnh phải đi cấp cứu và mổ sọ não mới thôi công việc này. Đó cũng chính là thời gian bà Cúc mở “Lò luyện thi” ở nhà, nên gia đình ông không lo bị đói.

Một điều trùng lặp thú vị là cả 3 chàng rể của ông bà đều là kỹ sư tốt nghiệp ngành Điện tử Viễn thông của Đại học Bách khoa Hà Nội. Như vậy, có thể nói thật hiếm có một gia đình nào ở Việt Nam mà cả bố mẹ và các con, có tới 8 người đều tốt nghiệp Đại học Bách khoa, như gia đình ông bà Nguyễn Thùy – Nguyễn Thị Cúc! Các con của ông bà đã sinh được 3 cháu gái và 3 cháu trai. Có 2 cháu gái lớn đã vào Đại học, trong đó 1 cháu hiện đi du học ở nước ngoài. Các cháu còn lại đều đang học Phổ thông trung học. Tất cả đều khỏe mạnh, thông minh, chăm ngoan và học giỏi.

Trước khi nghỉ hưu năm 2007, Kỹ sư Nguyễn Thị Cúc có 23 năm là Giảng viên Thực nghiệm của Bộ môn Vật lý Đại cương Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, trước đó có 9 năm công tác tại Viện Kỹ thuật Giao thông. Sau khi nghỉ hưu, từ năm 2008 bà được Chi bộ nơi cư trú tín nhiệm bầu vào Cấp ủy liên tiếp nhiều nhiệm kỳ. Năm 2015 bà chuyển sang tham gia công tác Người cao tuổi, là Ủy viên thường vụ Hội Người cao tuổi phường Bách Khoa từ 2015 đến nay. Ngoài ra, bà Nguyễn Thị Cúc còn là Phó Chủ tịch của Hội Cựu giáo chức Viện Vật lý Kỹ thuật - Đại học Bách Khoa Hà Nội.

*

Ngồi trò chuyện tại ngôi nhà số 10, hẻm 40/60/11 Tạ Quang Bửu, phường Bạch Mai, thành phố Hà Nội, Thương binh Nhà giáo Nguyễn Thùy tâm sự: Đời này, kiếp này tôi biết người vợ tào khang của mình. Nếu không có bà ấy, thì tôi đã chết từ lâu rồi và không có hạnh phúc gia đình như ngày hôm nay!

Cả vợ và các con tôi đều ủng hộ việc công bố cuốn nhật ký chiến trường “Ghi vội trên mâm pháo” này. Đây cũng là dịp tôi tri ân và nhớ về những đồng đội cũ, một thời sống chết chiến đấu cùng nhau ở đơn vị Pháo cao xạ phòng không Tây Bắc xưa. Những ai đi qua chiến tranh còn sống, năm nay cũng đã ở tuổi trên dưới 80 cả rồi. Đặc biệt, chúng tôi muốn có lời tri ân các thế hệ Lãnh đạo, những anh chị đồng nghiệp; cùng bạn bè và nhiều thế hệ Sinh viên của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, đã cùng gia đình tôi trải qua bao kỷ niệm buồn vui đáng nhớ – Nhà giáo Thương binh Nguyễn Thùy xúc động như muốn khóc.

Hà Nội, tháng 11 năm 2025

Đặng Vương Hưng

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/hoi-sinh-ky-dieu-cua-thuong-binh-nguyen-thuy-tu-mam-phao-do-lua-den-giang-duong-bach-khoa-post1797159.tpo