Hơn 60% giáo viên Việt Nam ứng dụng AI trong dạy học
Kết quả khảo sát quốc tế về dạy và học (TALIS) chu kỳ 2024 cho kết quả 64% thầy cô đã ứng dụng AI trong dạy học.
Kết quả khảo sát quốc tế về dạy và học (TALIS) chu kỳ 2024 cho thấy năng lực ứng dụng AI của giáo viên (GV) Việt Nam là một điểm sáng.

Cô trò Trường Mầm non Tân Phong, Tân Hưng tại phòng học thông minh. Ảnh: NQ
Người thầy ứng dụng AI vào dạy học
Theo thông tin từ Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), kết quả khảo sát quốc tế về Dạy và Học (TALIS) chu kỳ 2024 đã được công bố, với sự tham gia của 55 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Việt Nam tiếp tục tham gia với mẫu đại diện toàn quốc gồm 202 cơ sở giáo dục thuộc 58 tỉnh, TP, 202 hiệu trưởng và 4.410 GV.
Toàn bộ quy trình được thực hiện trên máy tính theo tiêu chuẩn kỹ thuật và bảo mật nghiêm ngặt của OECD, đảm bảo kết quả khách quan và đáng tin cậy. Một trong những điểm sáng đáng chú ý của TALIS 2024 là năng lực chuyển đổi số của giáo viên Việt Nam.
Có tới 64% GV đã sử dụng AI trong dạy học, đứng thứ 5 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia, cao hơn mức trung bình OECD (36%). Tuy nhiên, 71% GV cho biết trường học còn thiếu cơ sở hạ tầng và công cụ kỹ thuật số cần thiết để ứng dụng AI, cao hơn đáng kể so với mức trung bình OECD (37%).
Trong số những GV chưa sử dụng AI trong giảng dạy, 60% cho rằng họ chưa có đủ kiến thức và kỹ năng để ứng dụng công nghệ này (OECD: 75%). Điều đó phản ánh nhu cầu cấp thiết về đào tạo, bồi dưỡng năng lực số cho đội ngũ GV trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ.
54% GV thừa nhận chịu áp lực về thành tích học sinh
Theo kết quả khảo sát, mức độ căng thẳng nghề nghiệp của GV Việt Nam ở mức thấp. Cụ thể chỉ 4% cho biết “rất căng thẳng” trong công việc, dù 54% thừa nhận chịu áp lực về thành tích học sinh và thay đổi chương trình.
Trong khi đó, mức độ hợp tác chuyên môn tăng đáng kể. Cụ thể, 69% GV tham gia dạy học nhóm (tăng mạnh so với 2018), 98% tin tưởng đồng nghiệp và hiệu trưởng của mình. Đặc biệt, 97% GV “đồng ý” hoặc “hoàn toàn đồng ý” rằng hiệu trưởng có mối quan hệ chuyên môn tốt với nhân viên (OECD: 86%).
Cũng theo kết quả khảo sát, chỉ 4% GV dạy trong các trường có trên 10% học sinh có nhu cầu đặc biệt, song phần lớn GV cho biết tự tin điều chỉnh bài học để phù hợp với học sinh. Ở khía cạnh phúc lợi, các chính sách hỗ trợ và môi trường làm việc đang được chú trọng, góp phần nâng cao sự gắn bó với nghề.
Từ các kết quả nêu trên, Bộ GD&ĐT đưa ra một số nhóm khuyến nghị chính sách quan trọng.
Cụ thể, Bộ GD&ĐT sẽ chú trọng phát triển năng lực số và ứng dụng AI cho GV, bao gồm ban hành chuẩn năng lực số của GV Việt Nam, đầu tư hạ tầng công nghệ và tổ chức các chương trình bồi dưỡng linh hoạt, ngắn hạn về công nghệ giáo dục và an toàn dữ liệu.
Ngoài ra, Bộ GD&ĐT sẽ thúc đẩy giáo dục hòa nhập và hỗ trợ học sinh đa dạng như lồng ghép giáo dục đặc biệt, tâm lý học đường trong đào tạo sư phạm.
Bên cạnh đó, củng cố hệ thống phát triển nghề nghiệp liên tục (CPD), gắn bồi dưỡng với thăng hạng và lộ trình nghề nghiệp; xây dựng quỹ hỗ trợ bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên vùng khó. Đặc biệt, phát huy vai trò lãnh đạo học thuật trong nhà trường, xây dựng mô hình “trường học phát triển chuyên môn”, tăng quyền tự chủ học thuật cho GV chủ chốt...
Khảo sát TALIS 2024 được OECD triển khai nhằm cung cấp bằng chứng so sánh quốc tế về đội ngũ GV và hiệu trưởng THCS, qua đó phản ánh đặc điểm, quan điểm và kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ nhà giáo trong bối cảnh đổi mới giáo dục phổ thông và chuyển đổi số.
Nguồn PLO: https://plo.vn/hon-60-giao-vien-viet-nam-ung-dung-ai-trong-day-hoc-post880191.html












