Hưng Yên: Hơn 41 tỷ đồng tu bổ, tôn tạo khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn
Việc đầu tư xây dựng tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử cấp quốc gia khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn nhằm đáp ứng điều kiện về cơ sở vật chất, hướng tới lễ vinh danh nhân kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông.
Chiều 21/8, UBND tỉnh Hưng Yên đã tổ chức cuộc họp thống nhất phương án tu bổ, tôn tạo cấp bách di tích lịch sử cấp quốc gia khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn, xã Lê Quý Đôn.
Theo phương án được đưa ra, quy mô dự án gồm: Tu bổ, tôn tạo khu từ đường với diện tích 1.215m² với các hạng mục cổng vào, nghi môn, tòa bái đường, trung đường, hậu cung, nhà bia, nhà khách, bếp, lầu hóa sớ, nhà vệ sinh, hạ tầng kỹ thuật và các hạng mục phụ trợ khác.

Việc tu bổ, tôn tạo phấn đấu hoàn thành vào tháng 3/2026.
Tu bổ, tôn tạo khu lăng mộ Lê Trọng Thứ với diện tích 180m² với các hạng mục cổng, lăng mộ, tẩm thờ, tường rào; cải tạo, sửa chữa, tu bổ tổng thể sân vườn, hạ tầng kỹ thuật.
Dự án do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng số 2 tỉnh Hưng Yên làm chủ đầu tư, tổng mức đầu tư hơn 41 tỷ đồng. Thời gian thực hiện trong giai đoạn 2025-2026.
Kết luận cuộc họp, Phó chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên Phạm Văn Nghiêm nhấn mạnh việc tu bổ, tôn tạo Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn là cấp bách và cần thiết. Công tác tu bổ cũng nhằm đáp ứng điều kiện cơ sở vật chất để tổ chức lễ vinh danh danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn nhân kỷ niệm 300 năm ngày sinh (1726-2026), đúng như cam kết trong hồ sơ trình UNESCO.
Phó chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên đề nghị chủ đầu tư tiếp thu các ý kiến đóng góp, đề xuất, nghiên cứu bổ sung hoàn thiện thủ tục hồ sơ xin ý kiến Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch.
Việc thiết kế các hạng mục cần giữ được nét đặc trưng văn hóa vốn có, đảm bảo tính kết nối hài hòa giữa các hạng mục và không gian cây xanh. Đặc biệt, khi hạ giải cần tuân thủ nghiêm ngặt các yếu tố gốc, hạn chế tối đa việc sử dụng vật liệu thay thế.
Lê Quý Đôn, sinh ra tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay thuộc xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên. Ông là nhà bác học lớn của Việt Nam ở thế kỷ XVIII và là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam.
Với tài trí thông minh và kiến thức uyên bác, ông đã để lại cho hậu thế khoảng 40 bộ sách bao quát hầu hết các tri thức đương thời như: Lịch sử, địa lý, thi ca, nhiều tác phẩm khảo cứu, diễn nghĩa, chú giải, bàn giảng các kinh điển, cổ thư và nhiều tác phẩm thơ Nôm.