Hướng tới top 10 xuất khẩu nông, lâm, thủy sản: Đòn bẩy từ công nghệ
Đẩy mạnh công nghệ bảo quản, chế biến và cơ giới hóa không chỉ giảm tổn thất sau thu hoạch mà còn giúp Việt Nam tăng tốc vào top 10 xuất khẩu nông, lâm, thủy sản toàn cầu.
Thông tin được đưa ra tại "Hội nghị Khoa học, công nghệ bảo quản, chế biến nông lâm thủy sản và cơ giới hóa nông nghiệp toàn quốc năm 2025" với chủ đề: "Nâng cao chất lượng, hiệu quả, giảm thất thoát và lãng phí lương thực, thực phẩm" do Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch (VIAEP) phối hợp cùng Hội Khoa học và Công nghệ Lương thực Thực phẩm Việt Nam (VAFoST) và Hội Cơ khí Nông nghiệp Việt Nam (VSAGE) tổ chức ngày 12/9, tại Hà Nội.
Nông nghiệp Việt Nam khẳng định vị thế toàn cầu
Phát biểu khai mạc tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, trong một thập kỷ qua, nông nghiệp Việt Nam đạt nhiều thành tựu toàn diện. Tốc độ tăng trưởng GDP ngành duy trì 2,5 – 3,5%/năm; giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2024 đạt kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng gần 19% so với năm 2023, đưa Việt Nam vào nhóm 10 quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: N.H
Cơ cấu ngành đã có chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chế biến tăng, nông nghiệp xanh, tuần hoàn và chuyển đổi số bắt đầu hình thành rõ nét. Công nghệ bảo quản, chế biến giúp giảm tổn thất sau thu hoạch 5 – 10%, nâng cao chất lượng và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Cơ giới hóa nông nghiệp cũng tiến mạnh, tỷ lệ cơ giới hóa làm đất đạt trên 95%, nhiều mô hình ứng dụng drone, IoT, trí tuệ nhân tạo, robot đã được triển khai, góp phần tăng năng suất và giảm chi phí.
Tuy vậy, Thứ trưởng thẳng thắn nhìn nhận, việc ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế, tỷ lệ thất thoát ở rau quả, thủy sản vẫn cao; cơ giới hóa thiếu đồng bộ ở nhiều khâu; doanh nghiệp chế biến đa phần quy mô nhỏ, thiếu liên kết và sức cạnh tranh.
Trong bối cảnh mới, ông Tiến nhấn mạnh, hội nghị năm nay không chỉ chia sẻ kết quả nghiên cứu mà còn là diễn đàn kết nối “bốn nhà”: Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp – Nhà nông, nhằm tìm giải pháp ứng dụng công nghệ giảm tổn thất, phát triển cơ giới hóa đồng bộ, thúc đẩy chuyển đổi số và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu.
Để hiện thực hóa, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định năm định hướng: Hoàn thiện thể chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu và chuyển giao công nghệ; Phát triển trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp vùng gắn kết viện – trường – doanh nghiệp; Mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt trong chế biến sâu, logistics, cơ giới hóa thông minh; Thúc đẩy xã hội hóa nghiên cứu, huy động nguồn lực ngoài ngân sách; Xây dựng mô hình chuỗi giá trị nông sản ứng dụng công nghệ cao, truy xuất minh bạch.
“Khoa học, công nghệ không chỉ là động lực mà còn là then chốt để nông nghiệp phát triển bền vững. Với tinh thần đổi mới sáng tạo cùng sự đồng hành của các nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân, tôi tin tưởng nông nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục vươn lên, khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Công nghệ xanh, chìa khóa nâng sức cạnh tranh nông sản Việt
Chia sẻ tại hội nghị, TS. Nguyễn Anh Phong, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nhấn mạnh kinh tế tuần hoàn mang lại lợi ích đa chiều: giảm chất thải, tiết kiệm tài nguyên (môi trường); cắt giảm chi phí đầu vào, tăng giá trị đầu ra (kinh tế); tạo thêm việc làm, nâng cao đời sống (xã hội).

Toàn cảnh Hội nghị. Ảnh: N.H
Những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định và chương trình hành động, hình thành khung chính sách khá đầy đủ để thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn. Thực tế, nhiều mô hình đã được áp dụng từ quy mô doanh nghiệp, hợp tác xã đến nông hộ, bước đầu hình thành hệ sinh thái tuần hoàn.
Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế: nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng chưa đầy đủ; chính sách hỗ trợ còn phân tán, chưa có chương trình riêng; tỷ lệ tái sử dụng phụ phẩm thấp, cụ thể trồng trọt mới đạt 52%, lâm nghiệp đạt khoảng 50%.
Đặc biệt, mô hình tuần hoàn hiện chủ yếu nằm ở doanh nghiệp lớn, chưa tạo thành chuỗi liên kết giá trị, trong khi nghiên cứu, chuyển giao và đầu tư khoa học – công nghệ còn hạn chế.
Ở góc độ thị trường, yêu cầu về sản phẩm xanh ngày càng gia tăng tại EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... Đây vừa là áp lực, vừa là động lực để doanh nghiệp Việt Nam đổi mới theo hướng tuần hoàn.
Về giải pháp, ông Phong cho biết Bộ đã ban hành bốn chương trình hành động cho trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp, tạo cơ sở triển khai khoa học – công nghệ gắn với hành động cụ thể. Song song, cần xây dựng bộ tiêu chí sản xuất tuần hoàn, cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), phát triển tín dụng xanh và ưu tiên doanh nghiệp đạt chuẩn xanh trong tiếp cận vốn, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu.
Ngoài ra, các mô hình liên kết hợp tác xã (HTX) – doanh nghiệp cần được ưu tiên để hình thành hệ sinh thái tuần hoàn gắn với vùng sản xuất tập trung và chế biến. Một nhiệm vụ cấp thiết khác là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kinh tế tuần hoàn, tạo nền tảng thông tin minh bạch cho doanh nghiệp, HTX và người dân. Đồng thời, cần huy động nguồn lực ngân sách, ODA và hỗ trợ quốc tế cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ bảo quản, chế biến tiên tiến, qua đó nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.
GS.TS Lê Văn Tán, giảng viên và nhà nghiên cứu, đồng thời phụ trách Tạp chí Khoa học và Công nghệ của Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh nêu câu hỏi: “Nếu Việt Nam không kịp thời tiếp cận và ứng dụng công nghệ xanh, thì trong 10 năm tới chúng ta sẽ ở đâu trên bản đồ sản xuất và xuất khẩu nông sản toàn cầu?” Đây là điều cần suy nghĩ ngay từ bây giờ.
Theo ông Lê Văn Tán, để trả lời câu hỏi này, phát triển công nghệ cần dựa trên ba nguyên tắc: Công nghệ được ứng dụng rộng rãi, mang tính thực tiễn; bảo đảm chất lượng, an toàn và lợi ích cho người tiêu dùng; giảm phát thải, bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững. Quan trọng nhất là tạo sự cân bằng giữa công nghệ xanh và lợi ích kinh tế.
GS.TS Lê Văn Tán chỉ ra ba xu hướng nổi bật: phát triển kinh tế tuần hoàn và hệ sinh thái thông minh; ứng dụng công nghệ cao trong chế biến nông sản (enzyme, bảo quản sinh học, nông nghiệp chính xác, nông nghiệp số); kết nối công nghệ liên ngành để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm.
Ông cũng nhấn mạnh, khoa học, công nghệ đã trải qua các giai đoạn: từ xử lý đơn lẻ, đến tích hợp quy trình, và nay là ứng dụng công nghệ tiên tiến. Một số công nghệ hiện đại đang được nghiên cứu và bước đầu triển khai gồm: siêu âm cường độ cao, plasma lạnh, xử lý áp suất cao (HP), điện trường xung (PDE). Các công nghệ này giúp kéo dài thời hạn bảo quản, duy trì giá trị dinh dưỡng và chất lượng sản phẩm, nhưng thách thức lớn là chi phí thiết bị và khả năng triển khai ở quy mô sản xuất.
"Trong thời gian tới, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm và đầu tư để từng bước thương mại hóa các công nghệ này, bởi đây sẽ là yếu tố quyết định giúp ngành nông nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng tiêu chuẩn xanh toàn cầu", ông Lê Văn Tán khuyến nghị.
Chiều 12/9, hội nghị diễn ra 4 hội thảo chuyên sâu về sơ chế – bảo quản nông sản, chế biến nông lâm thủy sản, sinh học thực phẩm – đồ uống và cơ giới hóa nông nghiệp. Song song, không gian trưng bày sản phẩm được bố trí, tạo cơ hội cho doanh nghiệp, viện nghiên cứu và đơn vị sản xuất giới thiệu thành tựu, kết nối hợp tác và chuyển giao công nghệ.