Hương vị tết miền Tây

Nhờ những nét riêng thiên nhiên hoang dã, ruộng đồng mênh mông, kênh rạch chằng chịt, ĐBSCL đã tạo nên những nét văn hóa riêng đậm chất sông nước, hào sảng, thấm đậm nghĩa tình. Ai có dịp đón Tết ở ĐBSCL chắc chắn sẽ không khỏi ngỡ ngàng bởi những phong tục, tập quán riêng biệt, đầy ấn tượng.

Nồi bánh tét ngày cuối năm

Nồi bánh tét ngày cuối năm

Dấu ấn của thời khẩn hoang mở cõi đã ăn sâu hình thành lối sống chân chất, bình dị, hào phóng của người dân miền Tây, đồng thời hình thành những nét văn hóa đặc trưng. Hương vị Tết ĐBSCL cũng là một nét chấm phá độc đáo trong dòng chảy văn hóa miền Tây sông nước.

Dỡ chà, tát đìa bắt cá ăn Tết

Ngày Tết ở bất cứ gia đình nào, dù nghèo hay giàu, trong nhà phải chuẩn bị chu đáo những món ngon đậm hương vị đặc trưng. Nếu miền Bắc có thịt đông và bánh chưng thì mỗi gia đình Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng luôn có nồi thịt kho và bánh Tét. Đó là hai món ăn không thể thiếu trong mâm cơm ngày Tết.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp (Hội VHNT An Giang), bánh tét là một loại “bánh thiêng” bất cứ người Nam Bộ nào cũng quý trọng, đến mức không dám tự ý làm để ăn cho đỡ thèm mà phải chờ đến đúng ngày giỗ Tết, cúng quảy mới làm để dâng lên. Trước hết, cúng ông bà, tổ tiên. Cúng xong con cháu mới được ăn. Người nghèo không đủ tiền nấu riêng một nồi bánh, thì hàng xóm hùn lại phụ giúp mỗi người một việc để làm. Vừa gói bánh, vừa râm ran trò chuyện, tình cảm làng xóm càng chan hòa, ấm áp.

 Nụ cười xuân

Nụ cười xuân

Trên mâm cơm ngày Tết còn có món thịt kho tàu ăn kèm dưa giá hoặc dưa củ kiệu. Tô thịt đơn giản nhưng thể hiện triết lý âm dương với hình ảnh những quả trứng tròn (dương) bên những miếng thịt hình vuông (âm), biểu tượng sự hài hòa âm dương, vuông tròn; thể hiện mong ước một năm mới trọn vẹn, may mắn, gặt hái nhiều thành công.

Gần Tết, nhiều nông dân ĐBSCL còn tát đìa, dỡ chà bắt cá tôm làm phong phú thêm các món ăn ngày Tết. Đây được xem là nét đặc trưng chỉ ĐBSCL mới có. Trước đây, hầu như nhà nào ở miền Tây cũng có ít nhất một cái đìa (ao - NV) hay cái mương trũng để mùa nước lớn cá các nơi đổ về. Đến khi nước rút, cá vẫn trú lại sinh sản. Chỉ cần bỏ mấy nhánh cây khô, mấy bụi lục bình, đã trở thành nơi lưu trú lý tưởng cho bầy cá.

Cận Tết, hàng xóm láng giềng xúm lại tát cho cạn mấy cái đìa trong xóm để ăn Tết. “Hôm nay tát bên tui, ngày mai qua tới bên ông. Còn ngày mốt qua nhà chú Bảy”. Cứ như thế cả xóm chung tay xúm xít tát đìa thể hiện tinh thần đoàn kết, thắt chặt tình làng. Dẫu biết nhà nào cũng có đìa, có cá; nhưng hễ tát đìa xong người ta thường đem cá cho nhau. Cá bắt được, loại nào lớn bán kiếm tiền sắm Tết, loại nhỏ giữ lại mớ ăn Tết, mớ làm khô dành đãi khách ba ngày Tết.

Dần dần nguồn cá tự nhiên không còn nhiều; các ao, đìa cũng ít lại; người miền Tây chuyển qua cách bắt cá truyền thống khác là dỡ chà. Ở những vùng quê, hầu như nhà nào cặp mé sông cũng đều chất chà cặp bến “dụ” cá. Thường người ta bó những nhánh trâm bầu, cây tre chất ở mé sông làm nơi trú ẩn cho cá. Chừng 2 - 3 tháng, dùng lưới bao quanh dỡ chà bắt cá.

Ghe xuồng mua bán tấp nập cả một khúc sông chợ nổi ngày Tết

Ghe xuồng mua bán tấp nập cả một khúc sông chợ nổi ngày Tết

Phong tục đậm tính cách miền Tây

Với người miền Tây, Tết trước hết là hướng đến cội nguồn tổ tiên, sau là sum họp gia đình. Vì thế, dịp Tết nhiều gia đình đi tảo mộ, dọn dẹp, tân trang phần mộ của người đã khuất để mời tổ tiên cùng về ăn Tết.

Từ sáng sớm, mọi người trong nhà đều tập trung sắm sửa, chuẩn bị. Phụ nữ lo bếp núc với các món ăn, đàn ông chuẩn bị đồ thờ cúng. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nam Bộ Trương Ngọc Tường: “Gọi là ăn Tết, bởi người sống nghỉ Tết, ăn Tết, chơi Tết, chúc Tết, nhưng cúng trong ba ngày Tết là cúng cho tổ tiên, ông bà. Mình no đủ, vui vẻ trong mấy ngày Tết thì tổ tiên, những người đã khuất cũng phải no đủ trong ngày Tết”.

Ngày 30 tháng Chạp làm mâm cơm “rước ông bà”. Từ đó khói nhang trên bàn thờ luôn nghi ngút. Trước giao thừa, cúng gia tiên mời ông bà tổ tiên về ăn cơm, vui Tết với con cháu. Đến ngày mồng ba Tết thì làm lễ “đưa ông bà”.

Ba ngày Tết là ba ngày vui chơi, ăn uống, thăm viếng, chúc nhau những điều mới mẻ, tốt lành. Một tập quán phổ biến là trong những ngày đầu năm, mọi người chỉ nói ra những lời hay, ý đẹp, gặp nhau chào mừng, hy vọng mọi điều như ý. Bao điều không vui, không vừa lòng năm trước đều bỏ đi. Mọi người đi hết nhà này lại sang nhà khác, hết xóm này lại sang xóm khác chúc Tết và uống với nhau ly rượu, ly trà đầu năm. Tết ở miền Tây là vậy, nhộn nhịp nhưng ấm áp tình làng nghĩa xóm.

Nhắc đến Tết quê ở miền Tây, điều đáng trông đợi và được xem là vui nhất là đêm 29 và 30 tháng Chạp. Mọi người thức đón giao thừa, ăn uống, trò chuyện… vui vầy. Ngồi quây quần bên ánh lửa bập bùng nồi bánh tét rồi kể cho nhau nghe nhiều kỉ niệm; những hồi ức xa xưa về tổ tiên, ông bà đã khuất để cho con cháu đời sau hiểu. Những đứa trẻ thường được giao nhiệm vụ canh nồi bánh Tét. Chúng ngồi canh rồi kháo nhau đủ thứ trò con nít như tô vẽ thêm nét độc đáo ngày Tết miền quê. Người kể, người nói, tiếng cười, làm ấm thêm không khí gia đình.

Nhiều địa phương ở miền Tây còn có phong tục nấu chè tông giao thừa và coi như món ăn tượng trưng cho sum họp, thể hiện sự đầm ấm, ngọt ngào, hạnh phúc. Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường tâm sự: “Nhà tôi thường nấu chè chiều 30, ăn xong còn đi tưới cây. Ở miền Nam không có tục hái lộc đầu năm mà chiều 30 ra tưới cây, hoa kiểng ngoài vườn. Tưới cây để trong ba ngày Tết không động tới cây cối gì hết và cũng không được bẻ cây hái trái trong ba ngày Tết”.

Và như thế, không khí, hương vị tết vùng ĐBSCL không quá cầu kỳ, khuôn sáo mà giản đơn phóng khoáng, ấm áp gia đình, thắm đượm tình làng nghĩa xóm giống như tính cách người dân nơi đây.

Dỡ chà ăn Tết là nét riêng độc đáo ở miền Tây

Dỡ chà ăn Tết là nét riêng độc đáo ở miền Tây

Bồng bềnh chợ Tết trên sông

Do hệ thống sông ngòi chằng chịt, kênh rạch ngoằn ngoèo, trước đây người miền Tây di chuyển chủ yếu bằng ghe, xuồng. Chợ cũng được hình thành trên những con sông và người dân quen gọi là chợ nổi. ĐBSCL hiện có rất nhiều chợ nổi nổi tiếng như Phong Điền, Cái Răng (Cần Thơ), Ngã Năm (Sóc Trăng), Ngã Bảy (Hậu Giang)… tạo nên sự độc đáo của văn hóa miền sông nước và nét riêng biệt những phiên chợ Tết.

Ngày thường, chợ nổi đã tấp nập. Cận Tết, chợ lại càng sôi nổi, náo nhiệt. Người mua, kẻ bán hối hả, tất bật làm sôi động cả một đoạn sông dài. Tất cả như khoác lên một diện mạo mới, tươi tắn, tràn đầy sức sống cho những con sông. Từ Tết ông Công ông Táo, ghe xuồng từ miệt vườn các tỉnh đã kìn kịt kéo đến chợ với những ghe tàu đầy trái cây đặc sản như chuối, bưởi, thơm, xoài, dừa... Một loại quả không thể thiếu trong những ngày Tết và được tiêu thụ mạnh bậc nhất là dưa hấu. Theo tập tục, hàng năm mỗi nhà đều chọn cặp dưa to, cân đối, tròn trịa trưng trên bàn thờ tổ tiên và hầu như địa phương nào ở ĐBSCL cũng trồng được dưa hấu; nên ở phiên chợ Tết trên sông các ghe dưa hấu vượt trội hơn hẳn.

Màu sắc tươi tắn rạng rỡ của các loại hoa cũng tô thêm sắc màu tươi sáng, đầy sức sống cho chợ Tết trên sông. Có nhiều loại hoa nhưng chủ yếu là mai vàng và hoa cúc. Sắc vàng trở thành gam màu chủ đạo trong mùa xuân trên những dòng sông. Nếu bán nông sản, trái cây thì chỉ cần nhìn vào cây “bẹo” là biết ghe đó bán hàng gì; nhưng với ghe hoa Tết; chỉ cần nhìn màu sắc là biết mai vàng, cúc trắng, vạn thọ...

Đình Thương

Nguồn Pháp Luật VN: http://baophapluat.vn/dan-sinh/huong-vi-tet-mien-tay-490999.html