IMF 'bày cách' cho Việt Nam phục hồi bền vững hậu Covid-19
Theo IMF, Việt Nam cần tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp thông qua chính sách vĩ mô, duy trì ổn định tài chính, cải cách quyết liệt hơn để có thể tối đa hóa tiềm năng tăng trưởng trong thế giới hậu đại dịch Covid-19.
Tăng trưởng tích cực dù Covid-19
Bất chấp ảnh hưởng từ Covid-19, kinh tế Việt Nam năm 2020 vẫn trụ vững với mức tăng trưởng GDP 2,9% - một trong những tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới – và dự báo sẽ đạt mức tăng 6,5% trong năm nay nhờ vào nền tảng kinh tế mạnh mẽ, các biện pháp ngăn chặn quyết liệt cùng hỗ trợ tốt từ Chính phủ, theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
Việt Nam đã áp dụng nhanh chóng các biện pháp kiểm soát kết hợp cùng truy vết tiếp xúc tích cực, xét nghiệm và cách ly đúng mục tiêu các ca nghi mắc Covid-19, từ đó khiến tỷ lệ lây nhiễm và tử vong trên bình quân đầu người ở mức rất thấp.
IMF trong báo cáo gần đây đánh giá tăng trưởng ở mức cao hàng đầu thế giới của Việt Nam vào năm ngoái là kết quả từ quá trình phục hồi sớm các hoạt động trong nước, hoạt động xuất khẩu mạnh mẽ, đặc biệt là khu vực điện tử công nghệ cao khi các nước bước vào giai đoạn làm việc tại nhà.
Dù còn nhiều thách thức cần giải quyết, Việt Nam đã đối mặt với đại dịch Covid-19 bằng các nền tảng kinh tế và vùng đệm chính sách vững chắc.
Chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp sang hiện đại dựa trên sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài cùng triết lý “không để ai bị bỏ lại phía sau” đã thúc đẩy mức sống kể từ khi Việt Nam bước vào cải cách.
Đầu tư nước ngoài cùng thặng dư tài khoản vãng lai mạnh đã tăng cường khả năng phục hồi của nền kinh tế. Sức khỏe của hệ thống ngân hàng được cải thiện với khả năng sinh lời, thanh khoản cao hơn và ít nợ xấu hơn so với trước kia.
Quyết liệt hơn để phục hồi bền vững hậu Covid-19
IMF khuyến nghị các chính sách vĩ mô của Việt Nam cần duy trì sự hỗ trợ vào năm 2021 nhằm đảm bảo phục hồi bền vững và toàn diện.
Thị trường lao động đã chịu ảnh hưởng nặng nề trong quý II năm ngoái, đặc biệt là khu vực phi chính thức với khả năng tiếp cận bảo hiểm xã hội thấp. Mặc dù việc làm của khu vực này sau đó đã phục hồi, IMF đánh giá vẫn còn những yếu kém.
Theo đó, các chính sách trong ngắn hạn cần tập trung vào việc duy trì việc làm cũng như thúc đẩy sự phân bổ lại các nguồn lực, ví dụ thông qua sử dụng trợ cấp tuyển dụng và các chính sách tích cực nhằm khuyến khích đào tạo việc làm. Mạng lưới an sinh xã hội cần được mở rộng phạm vi bao phủ và nâng cao hiệu quả.
Các chính sách cũng nên hướng tới mục tiêu giảm tính phi chính thức trong lao động bằng cách cải thiện kỹ năng lao đông, giảm chi phí thuê hoặc sa thải đối với lao động chính thức cũng như khuyến khích chính thức hóa doanh nghiệp.
Ngoài ra, sự phục hồi bền vững của Việt Nam còn phụ thuộc vào sự ổn định tài chính.
Covid-19 đã làm giảm khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã yếu trước đại dịch, gia tăng lo ngại về sự ổn định tài chính. Các chính sách tiền tệ, tài khóa và tài chính do chính phủ thực hiện đã giúp giảm thiểu nguy cơ gia tăng các vụ vỡ nợ và sa thải hàng loạt.
IMF lưu ý các hỗ trợ tương tự cần có mục tiêu tốt hơn, hướng tới các doanh nghiệp có thanh khoản kém nhưng khả thi cho tới thời điểm phục hồi vững chắc hơn. Cùng với đó, tiếp tục giám sát chặt chẽ, giải quyết các khoản vay có vấn đề cũng như tăng cường khuôn khổ quản lý và giám sát kịp thời sẽ giúp giảm thiểu các rủi ro của hệ thống tài chính.
IMF cũng khuyến nghị Việt Nam cần cải cách quyết liệt hơn để tận dụng tiềm năng tăng trưởng thông qua giải quyết các nguyên nhân khiến năng suất thấp. Theo đó, Việt Nam nên ưu tiên cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cải cách hướng tới giảm bớt gánh nặng pháp lý cho các doanh nghiệp, cải thiện khả năng tiếp cận các nguồn lực của doanh nghiệp cũng như đổi mới, tăng cường quản trị và tiếp cận công nghệ.
Những cải cách trên sẽ giúp Việt Nam gặt hái được nhiều lợi ích hơn từ việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu trong thế giới hậu Covid-19.