Karl Marx & Thiền đi bộ

NSGN - Đó là chuyện ít người biết:Karl Marx, một trong những lý thuyết gia khai sinh ra Chủ nghĩa Cộng sản, đã biếttới Phật giáo, và từng cho biết rằng ông ứng dụng Thiền đi bộ (còn gọi là Thiềnhành) và thấy an lạc suốt trọn ngày, đạt tới cảm giác an lạc mà ông gọi là cảnhgiới “vô sở hữu” (nothingness) của nhà Phật.

Chân dung Karl Marx

Phần lớn cácsách tiểu sử về Karl Marx không nói gì đến chuyện này. Thực ra, dịch thuật sơsuất có thể nhầm lẫn, vì cảnh giới “vô sở hữu” có lẽ không thể đạt được từ Thiềnđi bộ. Dịch đúng, có lẽ nên dịch là “vô tâm”, vì trong thư, Marx viết là lúc đoống không bận tâm chuyện gì, mà đã “trở thành một cây gậy đi bộ” (I have becomemyself a sort of walking stick)… Đây cũng là một hình ảnh rất thiền, khi KarlMarx thấy tự thân mình biến mất, và mình với cây gậy như là một.

Bài viết “Marx and Walking Zen” (Marx và Thiền đibộ) của tác giả Gary Leupp đăng trên Tạp chí CounterPunch (ấn bản18-6-2019) ghi nhận về chuyện Marx ứng dụng Thiền đi bộ. Gary Leupp hiệnđang là Giáo sư Sử học tại Đại học Tufts University. Ông là tác giả nhiều sáchnghiên cứu về lịch sử Nhật Bản, đặc biệt các vấn đề lao động, giai cấp và tínhphái thời kỳ Tokugawa (1603-1868). Lĩnh vực nghiên cứu hiện nay của GS Leupp làlịch sử toàn cầu của Phật Giáo và tiếp cận của tôn giáo này với Tây phương thơìkỳ tiền hiện đại. Ông cũng viết nhiều bài về tình hình chính trị hiện thời củaHoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Đức, Iran, Sri Lanka…

Có vài chữ GaryLeupp lượng định về ảnh hưởng của Marx có thể làm một số độc giả không đồng ý,tuy nhiên nơi đây cũng sẽ được dịch toàn văn để tham khảo. Sau đây là bản dịchViệt ngữ bài của GS Gary Leupp viết về Karl Marx và Thiền đi bộ.

***

Vào tháng3-1866 (một năm trước khi tập 1 của bộ sách Das Kapital xuất bản), Marxlúc đó 48 tuổi, đang nghỉ ngơi bên bờ biển Hòa Lan, tại thị trấn Margate. Ôngviết một lá thư cho cô em họ Antoinette Philips, con gái của Lion Philips, mộtthương gia thuốc lá ở thị trấn Zaltbommel gần đó. (Lion là chồng của người phụnữ trước đó kết hôn với Heinrich Marx, thân phụ của Karl Marx. Người phụ nữ nàycó lẽ nổi tiếng nhất là người thúc giục Marx điền một bản trả lời nhiều câu hỏi,một trò chơi thịnh hành thời Victoria, năm 1865. Trong bản trả lời các câu hỏi,ở đó Marx nói rằng Spartacus là vị anh hùng ông ngưỡng mộ, trong khiShakespeare và Aeschylus là các nhà văn ông ưa thích). Trong thư, ông gọi côAntoinette (29 tuổi) một cách vui đùa là “Đứa con nhỏ của bố”.

Trước tiên,Marx than phiền một cách đùa giỡn rằng trước đó ông đã bị “lưu đày, theo lệnh cốvấn y khoa của bố, phải tới vùng bờ biển này, nơi thời điểm này trong năm, rấtmực cô tịch”.

Ông ghi nhận rằng,trong khi ở các thời điểm khác trong năm, ông có thể “bị cơ nguy tình cờ gặp vàđi với một du khách lạc bước nào đó".Trong khi bây giờ ông an vui một mình thôi.

Ông viết, “Do vậy,bố không bận tâm cho ai, và không ai bận tâm cho bố. Nhưng không khí tuyệt vơìtrong lành và đầy sinh lực, và nơi đây là cùng lúc khí trời từ biển giao hòa vơíkhí trời miền núi. Bố tự thân trở thành như một cây gậy đi bộ, đi lên và đi xuốngtrọn ngày, và giữ tâm trong trạng thái vô tâm mà Phật giáo gọi là đỉnh cao cuaản lạc nơi cõi người”.

Người ta dễ cóthiên hướng nói rằng Marx không biết nhiều về Phật giáo. Nhưng ông là một họcgiả sắc bén về các vấn đề thế giới, và có thể đã biết nhiều về Phật giáo hơn cả99/100 người châu Âu lúc đó. Chúng ta đôi khi quên rằng Karl Marx và FriedrichEngels là hai người trong nhóm các tư tưởng gia tuyệt vời nhất của thế kỷ XIX.

Chữ “Buddhism”(Phật giáo, viết trong tiếng Anh), hay vài chữ tương đương khác, chỉ lưu hành từthập niên 1820s; sách tiếng Anh đầu tiên viết chi tiết về đề tài này là “TheHistory and Doctrine of Buddhism” (Lịch sử và giáo pháp của Phật giáo) của tácgiả Edward Upham, xuất bản năm 1844. Marx có lẽ biết về sách này. Trong thậpniên 1830s, triết gia Georg W. F. Hegel đã xuất bản các bài thuyết trình mô tảPhật giáo như một hệ thống tín ngưỡng bi quan, trong đó lấy trạng thái “vô sở hưũlà nguyên tắc, mục tiêu và điểm cuối của mọi thứ” (nothingness the principle,goal and end of everything)1. Nhưng Marxrồi sẽ chuyển ngược lý luận của Hegel. Marx có thể - nếu Marx từng sáng tác rằng“hai hay ba trang giấy về lý luận biện chứng” Marx từng nhắc tới Engels - đãtrình bày về biện chứng của Tổ sư Long Thọ.

Năm 1844, triết gia Pháp Eugene Burnouf lý luận rằngcác tín ngưỡng thờ ngẫu tượng của hầu hết các nước châu Á đều liên hệ nhau, khơỉđộng cuộc nghiên cứu hàn lâm kiểu Tây phương hiện đại về Phật giáo. Rồi Phậtgiáo sớm được công nhận như một tôn giáo được truyền bá có sức mạnh tương đươngThiên Chúa giáo hay Hồi giáo về ảnh hưởng toàn cầu. Có nhà nghiên cứu còn nghĩrằng Phật giáo có thể đã ảnh hưởng tới Thiên Chúa giáo. Arthur Schopenhauer, một giáo sư cùng dạy nơiHegel dạy ở Đại học Heidelberg, đã viết vào năm 1851 rằng “Bản kinh Tân ước[của Thiên Chúa giáo]… chắc chắn theo cách nào đó có thể truy nguyên từ một nguồngốc Ấn Độ: hệ thống đạo đức của nó, quan điểm khắc kỷ về điều răn của nó, tínhbi quan, và một vị hóa thân xuống trần, tất cả đều có đặc tính Ấn Độ rõ ràng”.

Vào năm 1854,Karl Marx đưa giả thuyết trong vài bài báo về viễn ảnh của Taiping Rebellion(Cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc) tại Trung Quốc sẽ trở thành một cuộc thánhchiến liên hệ tới Phật tử Mãn Châu (có thể có Nga giúp đỡ) do người Tây Tạng hỗtrợ và những người dân Trung Quốc chống Phật giáo do Anh quốc hỗ trợ.

Từ chỗ cho rằng loạn quân Taiping đã “thực hiện mộtcuộc thánh chiến chống Phật giáo, phá hủy các ngôi chùa và thảm sát các nhàsư”, Marx tiên đoán sẽ có can thiệp từ người Tây Tạng nhân danh triều đình nhàThanh vốn gốc Mãn Châu (nguyên khởi nối kết rất gần với Phật giáo Tây Tạng).

Karl Marx viếttrên Báo New York Daily Tribune, ấn bản ngày 18-3-1854: “Cuộc thánh chiếnvĩ đại giữa người Trung Hoa và các Phật tử Mông Cổ dự kiến sẽ lan sang biên giơiẤ́n Độ, có thể xem như rất gần xảy ra”. Nhưng lịch sử không xảy ra chuyện đó. Loạnquân Thái Bình Thiên Quốc bị triều đình đánh bại với hỗ trợ từ người Anh, vàkhông có cuộc thánh chiến nào xảy ra. Nếu Marx hiểu rõ hơn lịch sử [hiếu hòa của]Phật giáo, hẳn là ông có thể tránh đưa ra tiên đoán như thế.

Nhưng dĩ nhiên, Marx cũng có một chút thiền duyệtpháp hỷ. Lúc đó, môn học về Phật giáo chỉ sơ khai (nghĩa là, chưa nghiên cứu kỹ).Tới năm 1856, một học giả tiếng Sanskrit là Horace H. Wilson vẫn còn viết rằng“nan đề là chưa biết nhân vật có tên là Sakya Sinha hay Sakya Muni, hay SramanaGautama, có hiện hữu thực sự hay không”.Tuy nhiên, vào năm 1879, độc giả thời kỳ Victoria được đọc bài thơ hùng vĩ củaSir Edwin Arnold, nhan đề “The Light of Asia” (Ánh sáng châu Á), ngợi ca Đức Phật,dựa vào các sử ký cổ đại, làm bực mình các giáo sĩ Anh giáo, những người nói rằngPhật giáo làm suy yếu đức tin vào Jesus Christ. Karl Marx có thể đã đọc [cácnghiên cứu đó] trước khi Marx lìa đời, và rồi an táng ở nghĩa trang HighgateCemetery ở London vào năm 1883.

Chúng ta biết rằng vì lý do sức khỏe, Marx trongcác năm cuối đời đã lui về sống cô tịch và trầm lắng. Marx để một thời giantrong năm 1882 tới sống ở Algiers, đi những cuộc đi bộ dài xuyên qua vườnBotanical Gardens (ghi chú: vườn này rộng 140 mẫu Anh, trồng nhiều ngàn giốngcây lạ để nghiên cứu). Thư của Marx từ nơi nghỉ ngơi (gửi về Engels và cô congái Laura) nói nhiều về các giống cây, các loài thú, khí hậu và sức khỏe cuaổng. Các thư đó nói rõ rằng Marx đã nói chuyện với các quan chức thuộc địa, ngươìẢ Rập, và nhiều người châu Âu ở Algeria, luôn luôn đưa câu hỏi, luôn luôn chothấy kiến thức ông mở rộng về lịch sử và về thời điểm đó. Đôi khi Marx viết thơmộng khi mô tả về gió và mặt trăng. Marx cũng quan sát (trong thư gửi Laura, côcon gái) rằng “con cháu Mahomet” cư xử “tuyệt đối bình đẳng trong quan hệ xã hôịcủa họ” nhưng rồi “họ sẽ đau đớn bị hủy diệt nếu không có một phong trào cách mạng”.

Tôi [tác giảGary Leupp] không biết rằng Karl Marx có thực tập thiền gì như “mindfulness” (tỉnhthức) hay không, hay chuyện đó có thành vấn đề không. Chỉ thấy thoải mái để biếtrằng Marx một thời từng đi bộ, từng đi bộ trong trầm tư, từng đi bộ khi hìnhdung trong “trạng thái vô tâm” mà Phật giáo xem như là đỉnh cao an lạc của cõingười”. Như thế là quá nhiều cho cái Không từ một nhân vật có bộ óc đầy nhữngthông tuệ mà (bất kể đã chết từ 136 năm trước) tiếp tục sáng lung linh trong thếgiới này.

***

Kinhin (Thiềnđi bộ/Kinh hành) là một phương pháp thiền Phật giáo mà tôi [GS Leupp] học đượctừ Thiền sư Matsunami Taiun, trụ trì Long Tuyền Am (Ryosen-An), thuộc chùa ĐạiĐức (Daitokuji) ở Kyoto, Nhật Bản. Nhà sư Taiun mới viên tịch cuối năm 2018.Xin nguyện cho chút tro bụi từ ngũ uẩn của nhà sư Taiun sẽ để lại một vài tốt đẹptrong thế giới này.

Nguyên Giác dịch

Nguyên tác “Marx and Walking Zen”, tácgiả Gary Leupp
(Nguồn:https://www.counterpunch.org/2019/06/18/marx-and-walking-zen/ )

_______________

(1) Ghi chú của người dịch: Lẽ ra, nơi đây trong tiếng Anh,chữ “emptiness” nên dùng hơn chữ “nothingness” tuy cả hai bề ngoài cận nghĩanhau, vì thói quen dịch Emptiness là Không, tức là bản chất duyên khởi, trongkhi chữ Nothingness thường được các dịch giả dùng cho nghĩa “vô sở hữu” - một cảnhgiới tâm thức trong định.

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/triethoc/2019/08/03/5a6280/