Kệ truyền pháp của Thiền phái Trúc Lâm - Lâm Tế thời Lê Trung Hưng (P.2)

Những bài Kệ truyền pháp của Thiền tông tuy có Thiền tông tại Ấn, Thiền tông tại Hoa, Thiền tông tại Việt... nhưng đều có tính thống nhất và xuyên suốt.

Tác giả: Vũ Bảo Tuân
Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Trần Nhân Tông

Chương 2. Kệ truyền pháp tiêu biểu của Thiền tông Ấn Độ - Trung Quốc - Việt Nam

2.1. Nguồn gốc

Kệ Truyền pháp” trong Thiền tông là hình thức truyền thừa pháp mạch vô cùng đặc biệt của Thiền tông, với rất nhiều giá trị vừa gắn liền với việc “truyền pháp” chung của Phật giáo, vừa tạo thành những điểm độc sáng của riêng Thiền tông. Điều này được chứng minh qua hệ thống tác phẩm của Thiền tông thuộc các dạng thức như lịch sử của toàn bộ Thiền tông có nguồn gốc từ Ấn Độ, lịch sử Thiền tông, lịch sử của Sơn môn pháp phái trong Thiền tông...

Trong loại hình Ngữ lục của Thiền tông: Ngữ lục của các Tổ sư đứng đầu một phái một tông của Thiền tông, Ngữ lục của một Thiền sư của Thiền tông; trong hệ thống tác phẩm mang yếu tố Thanh quy, nghi thức cúng Tổ, nghi thức lạy thù ân... của Thiền Tông. Cụ thể như Phó Pháp tạng nhân duyên truyện, Bảo Lâm truyện, Tổ đường tập, Cảnh Đức Truyền đăng lục, Truyền pháp chính tông ký, Lục Tổ đàn kinh, Lăng già sư tư ký, Lâm Tế lục, Bách trượng thanh quy, Sắc tu Bách trượng thanh quy, Vạn Phong Thời Ủy ngữ lục, Cúng tổ khoa... “Kệ truyền pháp” của Thiền tông tuy có những nét độc sáng riêng nhưng vốn có nguồn gốc từ trong Phật giáo.

Từ hai nguồn gốc về “Kệ - Truyền pháp” trong Phật giáo, Thiền tông đã tiếp thu, chuyển nạp và bổ sung những nét nghĩa phù hợp của riêng mình, và do đó, tạo nên những nét đặc biệt của Kệ Truyền pháp trong Thiền tông.

Thứ nhất, “Kệ” trong Kệ Truyền pháp của Thiền tông tiếp thu loại hình Cô khởi kệ, tức là loại hình văn vần độc lập, chuyển tải được trọn vẹn nghĩa lý thâm thúy độc lập mà vị Tổ sư muốn truyền lại cho hàng đệ tử. Song, hàng đệ tử này không phải là đệ tử chung chung, tất cả các đệ tử. Hàng đệ tử này ít nhất là người thành tựu được pháp hành, chứng đắc được pháp quả, thuật ngữ chuyên môn của Thiền tông gọi là “Nhập thất đệ tử”.

Hoặc nói như lời của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma rằng trong bốn vị đệ tử: Người được phần da, người được phần thịt, người được phần xương, người được phần tủy, Ông truyền pháp cho Tuệ Khả Thiền sư – Người được phần tủy của Ông.

Thứ hai, “Truyền pháp” là truyền lại giáo pháp. Nhưng nhấn mạnh phần giáo pháp cốt tủy, tinh yếu, nền tảng nhất mà một đời vị Tổ sư đã tu tập chứng đắc, phát lồ, muốn truyền thừa tạo nên Thiền phong của cá nhân. Bởi, giáo pháp của Phật giáo là kho giáo lý vô cùng đồ sộ và được kiết tập trong ba tạng Kinh – Luật – Luận. Dẫu vậy, nếu nhận diện về nội dung thì có thể chia làm ba loại: Thế gian pháp – Phật pháp – Thật pháp.

Thế gian pháp là phần nhận diện của Phật về nhân sinh vũ trụ, với Danh – Tướng – Vọng tưởng. Tức là mọi hiện tượng thuộc thế gian đều có ba phần cơ bản: Tên gọi - khái niệm (Danh), nội hàm - tướng trạng (Tướng), nghĩa lý do ý thức phân biệt nhận biết của cộng đồng và cá nhân (Vọng tưởng).

Phật pháp là giáo pháp Phật thiết lập nhằm nhận diện về lẽ Sinh – Diệt với luật Vô thường – Vô Ngã – Khổ - Bất tịnh của Thế gian pháp và phương pháp thực hành để chuyển hóa nhận diện sai lầm, bám chấp cố hữu, đạt đến tuệ tri như thật và giải thoát khỏi những phiền não ràng buộc, tri kiến phân biệt của thế gian, chính thức thoát khỏi sự đau khổ về Sinh tử luân hồi, cao hơn nữa là thành tựu quả Giác ngộ hoàn toàn – Phật quả.

Thật pháp là Phật tính bản hữu của chúng sinh, với đủ Thể - Tướng – Dụng siêu việt lẽ Sinh Diệt – Thành trụ hoại không. Bản thể ấy dù Phật ra đời hay không ra đời nó vẫn thế. Phật ra đời chỉ cốt để khẳng định Phật tính bản hữu và chỉ phương pháp chuyển hóa, phát lồ cho chúng sinh mà thôi. Vì thế giáo pháp Phật chỉ là phương tiện thiện xảo được thiết lập vì chúng sinh mà thôi.

Song, Giáo pháp Phật nếu được chia tỷ mỉ hơn để tạo nên tông phái, dòng mạch thì gồm có: Giáo pháp – Pháp yếu – Pháp mạch. Giáo pháp là giáo lý dạy cho tất cả đệ tử, những người có duyên học Phật, hay học trong tông phái cụ thể của Phật giáo; Pháp yếu là giáo pháp cốt yếu dạy cho những người đệ tử chính danh, hạ thủ công phu để thành tựu mục đích đặt ra của tông phái đó; pháp mạch là mạch hệ cốt lõi của tông phái đó, và chỉ truyền thừa cho đệ tử Nhập thất, đệ tử đắc pháp. Như vậy, có thể nói, người đệ tử Nhập thất trong Thiền tông là người thành tựu đầy đủ cả ba loại Giáo pháp – Pháp yếu – Pháp mạch, nắm giữ trọng trách truyền đăng tục diệm của Thiền tông nhưng vẫn không mâu thuẫn với Kinh – Luật – Luận của Phật giáo.

2.2. Kệ Truyền pháp tiêu biểu của Thiền tông Ấn Độ

2.2.1. Bối cảnh và tác phẩm gắn liền với Kệ Truyền pháp

Tác phẩm ghi nhận đầu tiên về việc “Truyền pháp” mà Đăng sử Thiền tông khẳng định đó là Phó pháp tạng nhân duyên truyện. Theo Hán tạng, tác phẩm này do Tam tạng Kiết Già Dạ người Tây Vực và Tôn giả Đàm Diệu người Hán hợp tác dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán vào thời Nguyên Ngụy (khoảng thế kỷ V). Như tên tác phẩm đã cho biết. Đây là một tác phẩm ghi lại nhân duyên về việc truyền thừa giáo pháp giữa Phật Thích Ca Mâu Ni với Đại đệ tử Đại Ca Diếp và từ Đại Ca Diếp lần lượt truyền xuống đến vị Tổ thứ 23 – Tôn giả Sư Tử của nền Phật giáo Ấn Độ.

Thời gian kéo dài khoảng từ thế kỷ VI trước Công nguyên đến thế kỷ IV sau Công nguyên, đi qua ba thời kỳ lịch sử Phật giáo Ấn: Nguyên thủy – Bộ phái – Đại thừa. Bộ chính sử Thiền tông được thu nhận vào Tạng ở thời nhà Tống là Cảnh Đức Truyền đăng lục kế thừa tác phẩm này, du nạp thêm 6 đức Phật trước thời Phật Thích Ca theo tinh thần của Kinh Đại Bản thuộc A hàm bộ và 5 vị Tổ sư nữa, để tạo thành Thống hệ truyền thừa chính danh của Thiền tông Ấn với 7 Phật và 28 Tổ.

Về hình thức “Truyện” của tác phẩm Phó pháp tạng nhân duyên truyện, đại khái, đầu tác phẩm kể về hành trạng học đạo – tu đạo – chứng đạo – truyền đạo của đức Thích Ca Mâu Ni với tiền thân (quá khứ thân) – hiện thân (hiện tại thân) từ vô số a tăng kỳ kiếp đến thế kỷ VI trước Công nguyên. Cuối cùng trước khi thị tịch, đức Thích Ca Mâu Ni đã chọn Tôn giả Đại Ca Diếp là người kế thừa pháp mạch. Đoạn văn về truyền pháp cụ thể như sau:

“Như Lai du hóa khắp các quốc độ tụ lạc thành ấp. Đem pháp thanh tịnh diệt trừ hết tà độc, hàng phục ngoại đạo, lập ra pháp tràng tối thắng. Đóng hết cửa ác thú, mở đạo Niết-bàn, hóa duyên xong rồi Phật liền diệt độ, bảo đại đệ tử là Ma-ha Ca-diếp rằng: Ông nay nên biết ta ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sinh mà cần tu khổ hạnh, nhất tâm chuyên cầu vô thượng thắng pháp. Như nguyện ta ngày trước nay đã được đầy đủ. Ca-diếp nên biết ví như mây đen kéo tụ khắp thế giới, mưa cam lồ tuôn xuống làm cho cây cối sinh trưởng. Mưa pháp vô thượng cũng lại như thế, có thể làm cho chúng sinh tăng trưởng thiện căn, do đây mà càng lễ bái cúng dường tán thán cung kính, ủng hộ chư Phật. Nay ta sắp nhập Niết-bàn, đem pháp thâm diệu này phó chúc lại cho ông. Sau này ông nên kính thuận theo lời ta dạy, rộng tuyên lưu bố đừng để đoạn tuyệt.

Ngài Ca-diếp bạch: Lành thay! Con xin thọ giáo, phụng trì chính pháp như thế, khiến cho chúng sinh đời vị lai gặp nhiều lợi ích. Duy nguyện Đức Như Lai chớ lo lắng. Thế là sau khi Như Lai diệt độ rồi ngài Ma-ha Ca-diếp lần lượt tuyên nói chính pháp, kiết tập pháp tạng Phật mà giáo hóa chúng sinh, làm cho chúng sinh thối chuyển không còn thối chuyển...” [Dẫn theo: tangthuphathoc.net]

Như trên đã nói qua, về việc truyền pháp, các kinh Đại bát niết bàn của Nikaya tạng hay của Đại thừa tạng đều có ghi nhận việc Tôn giả Đại Ca Diếp là người được chiêm ngưỡng kim thân - kim túc của Phật sau khi kim thân Phật đã được tẫm liệm trong kim quan vì việc đến muộn của Tôn giả: “Ngài Ma ha Ca Diếp dắt các Tỳ kheo vòng quanh kim quan lễ bái kêu khóc... Làm sao để được mở kim quan của Phật? Đại chúng đáp: Phật nhập niết bàn đã qua hai thất (14 ngày), sợ có tổn hoại chăng...

Lúc đó đức Như Lai vì lòng Đại bi bình đẳng đối với Ma ha Ca Diếp nên kim quan tự mở nắp..., lộ bày thân hình kim sa 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Vừa thấy kim thân của Phật lộ ra... Ma ha Ca Diếp cùng các Tỳ kheo khóc lóc rơi lệ, nhiễu quanh kim quan 7 vòng... Sau khi Đại Ca Diếp khóc than nói kệ rồi, đức Đại bi Thế Tôn liền hiện hai bàn chân thiên bức luân tướng ra ngoài kim quan. Từ thiên bức luân phóng ngàn tia sáng, chiếu khắp cả thế giới mười phương. Đại Ca Diếp và các Tỳ kheo thấy kim túc Phật liền cùng nhau cúi lạy thiên bức luân tướng. Vì quá cảm động Đại Ca Diếp ngất xỉu, giây lâu tỉnh lại, nghẹn ngào kêu khóc, đi nhiễu bảy vòng, đảnh lễ kim túc Phật, buồn khóc nói kệ...” [58, tr, 711- 714].

Theo 32 tướng tốt của Phật được mô tả trong Đại bản duyên kinh, Kim túc là tướng chân tròn đầy của Phật, đặc biệt lòng bàn chân có hình Chuyển pháp luân, Phật duỗi chân cho Tôn giả Đại Ca Diếp chiêm ngưỡng dù đã thị tịch cũng chính là biểu trưng cho việc “Truyền pháp”, khẳng định Tôn giả Đại Ca Diếp là người kế thừa việc Chuyển bánh xe pháp sau đó. Ngoài ra, các kinh điển thuộc Nguyên thủy Phật giáo hay Đại thừa Phật giáo đều thống nhất thừa nhận Tôn giả Đại Ca Diếp là người đã chủ trì việc tập hợp 500 A la hán để kiết tập giáo pháp một đời của Phật Thích Ca ngay sau lễ trà tỳ Phật. Vì thế Phó pháp tạng nhân duyên truyện đã tập hợp những sự kiện đó mà tạo ra “Truyện” phó pháp tạng.

Song, ở tác phẩm Phó pháp tạng nhân duyên truyện chưa có hình thức “Kệ truyền pháp”, mà chỉ có việc “Truyền pháp”. Hình thức kệ được ghi nhận theo đối thoại của thầy trò, hoặc theo sự kiện trong toàn bộ nhân duyên. Đến khi bộ Cảnh Đức Truyền đăng lục ra đời, hình thức Kệ truyền pháp của Thiền tông chính danh được hiện hữu. Cảnh Đức Truyền đăng lục là bộ Đăng sử có thể nói là quyền uy nhất của Thiền tông Trung Hoa.

Tác phẩm Truyền đăng lục (Lục là ghi chép) ghi chép về việc truyền thừa pháp mạch của Thiền tông, sự truyền thừa giữa thầy và trò được ví như việc nối tiếp ánh sáng từ ngọn đèn này qua ngọn đèn khác, làm cho ánh sáng được tồn tại mãi, không bị dứt tuyệt, ánh sáng còn là xua tan bóng tối, trí tuệ hiện hữu thì ngu si vô minh không có chỗ đứng, vì thế gọi việc này là Truyền đăng do Thiền sư Đạo Nguyên soạn và được nhập tạng vào thời Tống Chân Tông, năm Cảnh Đức thứ nhất (1004), vì thế mới có tên Cảnh Đức Truyền đăng lục.

Tác phẩm gồm 30 quyển: Quyển 1 – 2 ghi chép về hành trạng cơ duyên truyền thừa pháp mạch của Thiền tông với 7 đức Phật và 27 Tổ tại Ấn Độ; quyển 3 là hành trạng và cơ duyên truyền thừa pháp mạch Thiền tông ban đầu tại Trung Hoa, bắt đầu là Tổ Bồ Đề Đạt Ma (Vị tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn, và là Sơ tổ của Thiền tông Trung Hoa), kế đến là 5 Tổ: Tuệ Khả - Tăng Xán – Đạo Tín – Hoằng Nhẫn – Huệ Năng... số quyển còn lại là Truyền thừa pháp mạch của Thiền tông Trung Hoa sau thời Lục Tổ Huệ Năng cho đến Ngũ gia (Quy Ngưỡng - Tào Động - Vân Môn – Lâm Tế - Pháp Nhãn) của Thiền tông, tức hết thời Ngũ đại thập quốc, cũng như những hành trạng, thi kệ, tán tụng, minh ký, châm ca... của các tác giả có liên quan đến Thiền tông cho tới lúc này.[25, tập 1, tr. 768 – 769].

“Kệ Truyền pháp” trong Cảnh Đức Truyền đăng lục thuộc phần Thiền tông tại Ấn Độ được tác giả dẫn kinh và truyện để minh chứng: “Chư Phật cổ xưa ứng hiện thế gian, trải nối không cùng, chẳng thể lấy số chu kỳ mà tính được. Thời Hiền kiếp cận cổ tính được có 1000 đức Như Lai xuất hiện. Đến đức Thích Ca Mâu Ni, gồm 7 vị Phật. Theo Kinh Trường A hàm chép: Lực tinh tấn của 7 vị Phật phóng ra ánh sáng, diệt hết mọi tối tăm. Chư Phật đều ngồi dưới gốc cây mà thành chính giác. Lại có Mạn Thù Sư Lợi là Tổ sư trong thời 7 vị Phật. Đại sĩ Kim Hoa Thiện Huệ lên đỉnh Tùng Sơn hành đạo, cảm ngộ 7 Phật dẫn đầu và Duy Ma tiếp kế. Nay ghi lại sự việc kể từ 7 vị Phật trở về sau” [4, tập 1,tr.97].

7 Vị Phật này được dẫn từ Kinh Đại bản thuộc Trường bộ kinh (Nikaya tạng), hay trong Du hành kinh thuộc Trường A hàm (Hán tạng). Ở tạng kinh điển Phật giáo Nguyên thủy này, chính đức Thích Ca Mâu Ni nói về hành trạng của 6 đức Phật trước Người. Vì thế, tính hàn lâm rất được coi trọng. Còn phần lục về Phật Thích Ca Mâu Ni và 28 Tổ sư đều dựa vào Kinh – Truyện được lưu truyền của Phật giáo mà biên tập thành. Có những vị Tổ được hiện hữu trong Tạng kinh luật Nguyên thủy như Ma Ha Ca Diếp và A Nan thuộc thời Phật Thích Ca tại thế, có những vị Tổ được hiện hữu trong sử của thời Phật giáo Bộ phái như Hiếp Tôn giả, Mã Minh..., có những vị Tổ được hiện hữu trong thời Phật giáo Đại thừa như Bồ tát Long Thọ, Bà Tẩu Bàn Đậu (Thế Thân Đại sư)... Vì thế, tính hàn lâm cũng không phải không đủ. Kệ Truyền pháp của 6 vị Phật đầu được ghi sau câu giới thiệu tổng quát thời Phật xuất hiện. Từ đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến 28 vị Tổ, kệ được ghi ở phần thầy trò truyền thừa pháp mạch.

2.2.2. Nội dung tiêu biểu

“Kệ Truyền pháp” trong Cảnh Đức Truyền đăng lục được ghi chép vô cùng rõ ràng từ 7 vị Phật, 28 vị Tổ ở Ấn Độ, 6 vị Tổ tại Trung Hoa; sau đó Kệ truyền pháp được ghi chép không liền mạch. Có lẽ, sau thời Lục Tổ Huệ Năng, Thiền tông đã được chính danh thừa nhận và phát triển phồn thịnh, ít nhất là sự hiện hữu của Ngũ gia, mỗi một gia lại có vô số đệ tử đắc pháp nên mạch hệ không còn là độc nhất. Ngoài ra, các Tổ sư đắc pháp sau thời Lục Tổ Huệ Năng đều có Ngữ lục riêng, hoặc có Quảng lục riêng, nên “Kệ truyền pháp” có khi được ghi chép ở trong các tác phẩm chuyên biệt đó.

Về nội dung của Kệ Truyền pháp thuộc Thiền tông tại Ấn được bộ Cảnh Đức Truyền đăng lục ghi chép rất đầy đủ.

Bảng thống kê sau sẽ minh chứng điều này:

Bảng thống kê trên cho thấy:

Cách thức ghi chép Kệ Truyền pháp khá thống nhất.

Thống nhất từ Phật đến Tổ. Có điều ở bảy đức Phật, kệ không được ghi kèm với câu trao truyền chính pháp. Có lẽ bởi Phật Phật tương đồng trong bản thể, chỉ khác nhau về biểu tướng và biểu dụng tùy theo hạnh nguyện. Vả lại, trong bảy đức Phật thì có 3 vị thuộc Quá khứ Trang Nghiêm kiếp; 4 vị còn lại thuộc Hiện tại Hiền kiếp. Khoảng cách giữa Quá khứ - Hiện tại, thậm chí là khoảng cách giữa mỗi thời Phật trong cùng một kiếp khá khác xa, tuổi thọ của Phật, niên đại tồn tại của Chính pháp – Tượng pháp – Mạt pháp cũng khá dài, tuổi thọ loài người... đều khác nhau.

Thí dụ, đức Tỳ Bà Thi thị hiện lúc con người thọ tám vạn tuổi, Phật Thi Khí thị hiện lúc con người thọ bảy vạn tuổi, kế đến là sáu vạn tuổi, bốn vạn tuổi, ba vạn tuổi, hai vạn tuổi..., trong khi đức Thích Ca Mâu Ni thị hiện lúc tuổi thọ con người chỉ là 100 năm. Thêm vào đó, mỗi vị Phật lại đều có báo chúng khác nhau, những đệ tử đắc pháp và được trao trọng trách truyền thừa pháp mạch cũng khác nhau...

Kệ truyền pháp từ Phật đến Tổ luôn thống nhất bằng câu văn xuôi rồi đến văn kệ. Điều này cũng đã được chúng tôi minh chứng từ Kinh tạng của Phật giáo Nguyên thủy ở trên. Còn ở Cảnh Đức Truyền đăng lục thì đức Thích Ca Mâu Ni truyền cho Tổ Ma Ha Ca Diếp như sau: “... Sau khi thành đạo, Phật đến Lộc Uyển chuyển pháp luân, giảng Tứ thánh đế cho 5 anh em Kiều Trần Như... Phật đã trụ thế và thuyết pháp trong 49 năm, sau đó nói với Đại Ca Diếp: Ta có Chính pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, Thật tướng vô tướng, Vi diệu pháp môn, nay phó chúc lại cho ông, ông nên hộ trì và truyền lưu, đừng để tuyệt diệt. Nghe ta nói kệ:

Pháp bản pháp vô pháp
Vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp. [4, tập 1, tr.105]."

Dịch nghĩa tiêu biểu:

"Pháp vốn là Vô pháp
Vô pháp cũng là Pháp
Nay trao Vô pháp rồi
Nào phân Pháp – Vô pháp."

Ma Ha Ca Diếp truyền lại cho A Nan...; Bát Nhã Đa La truyền lại cho Bồ Đề Đạt Ma, đều là: “Như Lai đem chính pháp nhãn tạng truyền cho Ta...; Như Lai đem chính pháp nhãn tạng truyền cho Đại Ca Diếp, lần lượt truyền thừa cho đến ta. Ta nay trao lại cho ông, hãy nghe ta nói kệ:

Tâm địa sinh chư chủng
Nhân sự phục sinh lý
Quả mãn Bồ đề viên
Hoa khai thế giới khởi."

Dịch nghĩa tiêu biểu:

"Đất tâm sinh hạt giống
Nhân sự nên hiển lý
Quả tròn Bồ đề vẹn
Hoa nở thế giới sinh."

Thầy trò truyền thừa:
Trong 28 Tổ sư tại Ấn, mỗi đời đều chỉ truyền thừa pháp mạch cho một người dù Tổ sư có rất nhiều đệ tử. Thầy Trò truyền thừa đều là những người có nhiều điều đặc biệt về xuất thân, về tiền thân và về hạnh nguyện. Thí dụ:

Về xuất thân, hầu hết 28 Tổ sư đều thuộc hoặc dòng dõi Bà la môn hoặc dòng dõi Sát đế lợi. Tức thuộc hai tầng lớp cấp cao của bốn giai cấp Ấn Độ. Có lẽ, ở hai tầng lớp này, người ta được thừa hưởng rất nhiều đặc ân, trong đó học hành thông tỏ Ngũ minh học (nội minh, ngoại minh, y phương minh, công xảo minh, thanh minh) là điều bắt buộc. Quan trọng hơn, đời sống của một Bà la môn hay một Sát đế lợi thường chia làm bốn thời kỳ: Học đạo với thầy – Lập thân hành đạo, tạo dựng sự nghiệp thế gian – Bán cư bán xuất, tức khi đứa cháu ra đời và tóc điểm sương thì thỉnh thoảng vào rừng, vào trú xứ Sa môn đoàn tu tập, gia đình con cái có việc thì lại về chung lo – Xuất gia tu đạo mãi mãi, chuẩn bị cho việc trở về với Đại phạm...

Chính những điều này tạo nên nếp sống, cách sống, văn hóa sống, khiến họ vững chãi với đời sống hiện tại nhưng cũng ý thức và thực hành cho đời sống hậu thân, vì thế khi đến với Phật giáo họ dễ dàng thâm nhập và chứng ngộ đạo quả trong Phật giáo, gánh lấy trọng trách hoằng truyền chính pháp. Đặc biệt nhất, rất nhiều Tổ sư tại Ấn này là những nhân vật lịch sử được ghi chép trong kinh điển Phật giáo Nguyên thủy, lịch sử tông phái của Phật giáo Bộ phái và Phật giáo Đại thừa.

Tổ thứ nhất là Ma Ha Ca Diếp thuộc dòng Bà la môn; Tổ thứ hai là A Nan thuộc dòng Sát đế lợi... được ghi trong 5 bộ Nikaya hay 4 bộ A hàm; Hiếp Tôn giả Tổ sư, Mã Minh Tổ sư, Long Thọ Tổ sư, Bà Tẩu Bàn Đậu Tổ sư... đều là những vị xuất thân từ Bà la môn, và là Tổ sư của nhiều dòng phái Phật giáo: Thuyết nhất thiết hữu bộ phái, Trung quán phái, Du già phái với nhiều tác phẩm Luận nổi tiếng hiện còn...

Về tiền thân, hầu hết thầy trò đều có những nhân duyên tiền thân khá thú vị. Cảnh Đức Truyền đăng lục rất coi trọng việc này. Có lẽ đây là một trong những yếu tố góp phần khẳng định giá trị và tính chính danh của Thiền tông. Bởi lẽ, theo triết lý duyên sinh của Phật giáo, dù là Phật giáo Nguyên thủy, hay Phật giáo Bộ phái, Phật giáo Đại thừa..., Bản sinh – Bản sự là hai thể tài rất được coi trọng. Ở đó, trình hiện cho chúng ta thấy rõ hành trình học đạo của người học Phật, trong đó có Phật Thích Ca Mâu Ni, các đệ tử... Họ hoặc trải qua rất rất nhiều dòng sống, kiếp sống khác nhau trong quá trình từ phàm phu đến Hiền vị- Thánh vị– Phật vị; hoặc trải qua ba a tăng kỳ kiếp cùng 100 kiếp cụ thể của hành trình Bồ tát đạo để thành Phật của Bộ phái; hoặc trải qua 53 tầng bậc của Bồ tát đạo Đại thừa Sơ kỳ, 10 Địa Bồ tát của Đại thừa Trung kỳ...; thậm chí là trải qua vô lượng vô số kiếp không thể tính đếm được tích lũy về Phúc – Tuệ cho việc trở về với Phật tính bản hữu và tiếp tục hoằng pháp lợi sinh.

Quan trọng hơn, ở Thiền tông thời kỳ tại Ấn, Tiền thân không chỉ được Thầy – Trò tự biết và nhắc nhớ cho nhau, mà còn phải do Phật hoặc Tổ sư trước đó của bản tông dự ký, tiên ký. Chính những điều này cũng góp phần khẳng định thêm hạnh nguyện “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh” của người học Phật nói chung, của Thiền tông nói riêng.

Câu chuyện của Tổ sư Thương Na Hòa Tu là một minh chứng sống động: “Tổ thứ ba, Thương Na Hòa Tu, người nước Ma Đột La, họ Tỳ Xá Đa. Thân mẫu mang thai Tôn giả đến sáu năm mới sinh. Tên của Tôn giả đặc theo loại cỏ lành của Tây Vực. Vì khi có Thánh nhân xuất hiện, loại cỏ này cũng xuất hiện ở những nơi thanh tịnh. Xưa khi Như Lai hành hóa đến nước Ma Đột La, thấy rừng xanh rậm, cành lá sum suê, liền bảo A Nan: Rừng này tên là Ưu Lâu Tòa, sau khi Ta diệt độ 100 năm, Tỳ kheo Thương Na Hòa Tu sẽ chuyển pháp luân ở đây. Sau 100 năm, Hòa Tu quả sinh ra và xuất gia chứng đạo ở đây, thọ nhận Pháp nhãn của A Nan, giáo hóa chúng sinh. Khi dừng ở rừng này, Tôn giả còn hàng phục hai con rồng lửa, quy thuận Phật giáo...”[4, tập 1, tr.132]; hoặc câu chuyện của Tổ thứ 7: “Tôn giả Bà Tu Mật, người phương Bắc, xứ Thiên Trúc, họ Phả la đọa, thường mặc y phục sạch sẽ, ôm bình rượu đi đây đó trong làng xóm, lúc ngâm nga, khi vịnh gió, người trông thấy đều cho là điên. Khi gặp Tổ Di Giá Ca, nhắc đến chuyện Như Lai thọ ký khi xưa nên tự tỉnh ngộ nhân duyên đời trước, bèn bỏ nhà xuất gia, thụ pháp truyền pháp, du hóa đến nước Ca Ma La rộng tuyên chính pháp...” [4, tập 1, tr.143].

Riêng Tổ Bát Nhã Đa La đời thứ 27 của Thiền tông Ấn, không chỉ lo việc truyền bá Thiền mạch đương thời của Ấn Độ, mà còn dự ký cho Thiền mạch tại Trung Hoa; không chỉ thụ ký cho đệ tử trực tiếp truyền thừa Thiền mạch tại Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma, mà còn thụ ký cho đến hậu duệ sau Lục Tổ Huệ Năng – Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất...

Về hạnh nguyện, Cảnh Đức Truyền đăng lục nhấn mạnh việc không chỉ hoằng dương chính pháp giáo hóa chúng sinh thông thường, mà chư Tổ sư luôn có một chí nguyện lớn, tìm pháp khí (Đệ tử nối pháp) để truyền thừa pháp mạch. Và những vị đệ tử sẽ là pháp khí cũng thường kiên trì đợi chờ khi đủ duyên gặp thầy. Người thầy thường dựa vào những hiện tướng lạ như ánh sáng (tượng trưng cho trí tuệ lớn), mây lành, khí lạ (tượng trưng cho đức từ bi ban pháp khắp chúng sinh)... mà tìm pháp khí; đệ tử khi gặp đúng thầy cũng không e ngại khó khăn gian khổ mà nhận lĩnh sứ mạng hoằng pháp và tiếp tục tìm pháp khí dù phải trải qua hành trình từ Bắc Ấn đến Nam Ấn, từ nước này đến nước nọ.

Bởi pháp hành cốt lõi trong việc chứng đạo của nhà Phật là Thiền, dù đối tượng của Chỉ - Quán là Tứ niệm xứ, Tứ đế, Thập nhị duyên sinh, Tam quán (Không – Giả - Trung; Chỉ - Quán – Thiền), tức tâm tức Phật... Có điều Thiền pháp được đề cập trong Thiền tông tuy vẫn không xa nền tảng Thiền Phật giáo nói chung từ Nguyên thủy qua Bộ phái đến Đại thừa nhưng vẫn mang một phong cách rất riêng của chỉ Thiền tông: Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền (Nhận rõ Phật tính bản hữu, hạ thủ công phu bằng cuộc sống thường nhật của thân – khẩu – ý trong mọi lúc mọi nơi qua hoạt động đi đứng nằm ngồi.

Nghĩa là, sáu căn tiếp xúc với sáu trần phát sinh tuệ tri như thật về chúng, không dấy niệm phân biệt tốt xấu thiện ác thuộc hai phương diện đối lập. Việc thành Phật, thành A la hán không còn là bao lâu thời gian, không còn là đoạn bao nhiêu phiền não chướng sở tri chướng, không còn phải bám chấp khư khư vào pháp môn cụ thể nào để tu để chứng...) Vì thế, pháp mạch phải được truyền thừa một cách chuyên biệt dù khó khăn thế nào.

Thí dụ Tổ thứ 8 tìm Tổ thứ 9 là Phục Đà Mật Đa “Sau khi nhận pháp, Tôn giả Phật Đà Nan Đề (Tổ thứ 8) bèn dẫn đồ chúng lên đường hoằng pháp. Đến nước Đề Da, nhà Tỳ Xá La, thấy trên mái nhà có luồng ánh sáng trắng chiếu xa, liền bảo đồ chúng: Nhà này có Thánh nhân, miệng chẳng nói năng, đúng là căn khí Đại thừa, chẳng đi đây đó mà cảm biết mọi việc... Lại nói: Kẻ này xưa kia từng gặp Phật, bi nguyện rộng lớn, lo tình yêu thường tình của cha mẹ khó lìa nên chẳng chịu nói năng, chẳng chịu đi lại...” [4, tập 1, tr.145 – 146];

Tổ thứ 9 tìm Tổ thứ 10 cũng tương tự: “Sau khi nhận pháp từ Tổ thứ 8, ngài đến Trung Ấn Độ truyền giáo. Bấy giờ có ông Trưởng giả tên Hương Cái, dẫn con tới làm lễ Tổ, thưa: Đứa con này, nằm trong bào thai 60 năm nên được đặt tên là Nan Sinh. Từng có tiên nhân bảo là đứa bé phi phàm, sẽ là pháp khí trong tương lai. Nay gặp Tôn giả, xin cho nó xuất gia theo Ngài... Sau khi được gặp Tổ, Tôn giả siêng năng tu tập, hông không dính chiếu, vì thế có hiệu là Hiếp Tôn giả... Tôn giả lại du hóa đến nước Hoa Thị, ngồi nghỉ dưới gốc cây, chỉ tay xuống đất, bảo đồ chúng: Nếu chỗ đất này biến thành vàng, ắt sẽ có Thánh nhân vào hội ta. Vừa nói xong, đất biến thành vàng, Phú Na Dạ Xa liền đến trước mặt, chắp tay. Tổ hỏi: Ông từ đâu tới? Thưa: Tâm con chẳng tới. Hỏi: Dừng lại ở đâu? Thưa: Tâm chẳng chỗ dừng. Hỏi: Không định ư? Thưa: Chư Phật đều thế. Bảo: Ông đâu phải chư Phật? Thưa: Chư Phật cũng chẳng phải con. Tổ nhân đó nói kệ truyền pháp...” [4 tập 1, tr.148 – 150].

Sư tổ Đạt Ma. Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa (sưu tầm).

Sư tổ Đạt Ma. Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa (sưu tầm).

2.2.3. Giáo lý – pháp yếu - pháp mạch được truyền thừa

Từ những bài Kệ Truyền pháp của 7 Phật và 28 Tổ của Ấn Độ. Có thể nói đậm chất Phật giáo Ấn. Nói một cách cụ thể hơn, giáo lý nền tảng và phổ biến của lịch sử Phật giáo Ấn từ Nguyên thủy qua Bộ phái đến Đại thừa Sơ kỳ - Đại thừa Trung kỳ được thể hiện khá rõ ràng.

Giáo lý nền tảng – pháp yếu - pháp mạch được truyền thừa Kệ Truyền pháp của 6 vị Phật

Gồm Thân – Tâm – Nghiệp - Quả. Có điều Thân – Tâm – Nghiệp - Quả ở đây đều được nhìn theo tinh thần của Bát Nhã. Và là gồm hai phương diện nền tảng của Bát Nhã: Duyên sinh Tính Không và Chân như Tính Không. Ở góc độ Duyên sinh Tính Không, Thân – Tâm – Nghiệp – Quả... đều do duyên sinh nên đều thuộc các tướng không thật mà Bát Nhã thường mô tả: Mộng – Huyễn – Bọt – Bóng – Sương – Móc – Chớp -Trăng trong nước – Vang trong động, Quáng nắng, thành Càn thát bà,... Và vì không thật, vì thuộc hữu sinh hữu diệt, thành trụ hoại không... Hữu vi pháp nên thuộc Tính Không. Kệ của Phật Tỳ Bà Thi – Phật Thi Khí:

"Thân tòng vô tướng trung thọ sinh,
Do như huyễn xuất chư hình tượng,
Huyễn nhân tâm thức bản lai vô,
Tội phúc giai không vô sở trụ...

Khởi chư Thiện pháp bản thị huyễn,
Tạo chư ác nghiệp diệc thị huyễn,
Thân như tụ mạt, Tâm như phong,
Huyễn xuất vô căn vô thực tính..."

Ở góc độ Chân như Tính Không, Kệ nhấn mạnh phần biểu Tướng và biểu Dụng của chư Phật. Bởi tuy là Vô vi pháp, siêu việt hai mặt đối lập bằng tư duy và ngôn ngữ duyên sinh, nhưng vì lòng từ bi vô lượng, vì trí tuệ vĩ đại và phương tiện khéo léo, chư Phật, Bồ tát... người học Phật không ngại mượn biểu Tướng để thị hiện, phát ra biểu Dụng để giúp chúng sinh thấy rõ Phật tính bản hữu của tự thân và nỗ lực hạ thủ công phu chuyển phàm thành Thánh, chuyển mê thành ngộ..., vừa chấm dứt sinh tử luân hồi khổ, vừa phát lồ Phật tính, vừa lập nguyện độ sinh, tự tại thị hiện hằng hà sa số thân tướng đi trong sinh tử, độ khắp mọi loài... Cuối cùng thì dù làm bao nhiêu việc vẫn không thấy có người cứu chúng sinh, không có giáo pháp cứu chúng sinh, không có chúng sinh được cứu – Tam luân không tịch, Vi nhi vô vi... Vì thế chỉ rõ Thân – Tâm do tứ đại hòa hợp tạo thành này tuy giả nhưng Phật tính – Phật thân cũng từ đó mà ra, cần kỹ lưỡng nhận diện để vẫn vận dụng được Duyên sinh Tính Không mà hiển lộ Chân như Tính Không, tự tại vô ngại, và như thế chúng sinh tức Phật, Phật và chúng sinh bình đẳng... Kệ của Phật Câu Lưu Tôn:

"Kiến thân vô thật thị Phật thân,
Liễu tâm như huyễn thị Phật huyễn,
Liễu đắc Thân Tâm bản tính không,
Tư nhân dữ Phật hà thù biệt?

Bài kệ của Phật Ca Diếp:
Nhất thiết chúng sinh Tính thanh tịnh,
Tòng bản vô sinh, vô khả diệt,
Tức thử thân tâm thị huyễn sinh
Huyễn hóa chi trung vô tội phúc..."

Giáo lý nền tảng – pháp yếu - pháp mạch được truyền thừa Kệ truyền pháp từ Phật Thích Ca Mâu Ni đến Tổ thứ 16

Gồm: Pháp – Hữu pháp – Vô pháp – Phi hữu vô pháp; Tâm – Bản tâm – Vô tâm – Phi Tâm pháp; Chứng – Vô chứng; Đắc – Vô đắc; Có điều tất cả yếu tố trên đều đặt trong khung Truyền Pháp. Có thể thấy, tinh thần Bát nhã được kế thừa một cách sống động và tiếp tục phát huy, hỗ bổ những điều mà trước kia chưa đề cập. Ở đây, dấu ấn của nền Phật giáo Đại thừa Sơ kỳ nói riêng, tư tưởng thống nhất xuyên suốt của nền Phật giáo Đại thừa nói chung đã hiện hữu khá rõ ràng. Nền Phật giáo Đại thừa tuy được tính từ thế kỷ I trước hoặc sau công nguyên, và phát triển mạnh kể từ thời tổ Long Thọ (thế kỷ II). Có điều giáo lý ấy đã hiện hữu rải rác trong hệ thống giáo điển Nguyên thủy và Bộ phái.

Đó là giáo lý Bát nhã với triết lý cơ bản: Chân Không Diệu Hữu, nhấn mạnh phần Chân Không. Sau khi được biên tập, kiết tập, hiển hiện ở Hoa Nghiêm – Pháp Hoa... , giáo lý đó nhấn mạnh thêm phần Diệu Hữu, vừa khẳng định Phật tính bản hữu của mọi chúng sinh, vừa khẳng định hạnh nguyện bi tâm vô lượng vô biên của Phật – Bồ tát đối với chúng sinh qua việc thị hiện ở đời, chỉ rõ cho chúng sinh thấy bản thể thanh tịnh – Phật tính vốn có của tự thân, đồng thời trình hiện ra hàng ngàn pháp môn, pháp hành để chúng sinh tùy căn cơ trình độ, tùy duyên nghiệp của mình mà học hỏi, tu tập, chuyển hóa, trở về và thành tựu với Phật tính bản hữu, Tri kiến Phật của tự thân, và rồi lại tiếp tục việc Hoằng pháp lợi sinh như Phật – Bồ tát.

Chính từ khung Truyền pháp, ta thấy có hai yếu tố được đề cập. Đó là: Pháp và Truyền. “Pháp” được nhận diện chủ yếu thuộc phần Chân Như Tính Không của Bát nhã. Bởi ở góc độ Chân Không – Bản Thể, Pháp không thể gọi tên vì siêu việt những giới hạn của ngôn ngữ và tư duy biểu tướng. Song, ở góc độ Diệu Hữu – Tướng Dụng, Pháp được gọi tên, được nhận diện bằng hai phương diện đối lập: Hữu – Vô. Ngoài ra, vì mượn ngôn ngữ để biểu ra Tướng và Dụng nên phải thêm một phần phá chấp để chúng sinh không chấp Có chấp Không... Bài kệ của Phật Thích Ca và một số Tổ sẽ cho thấy điều này:

"Pháp bản pháp Vô pháp
Vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó Vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp "(Bài kệ Phật Thích Ca Mâu Ni truyền cho Sơ tổ Đại Ca Diếp)

Tạm dịch: Pháp vốn là Vô pháp, Vô pháp cũng là Pháp. Nay khi trao Vô pháp, pháp pháp thảy đâu pháp.

"Pháp pháp bản lai pháp
Vô pháp vô phi pháp
Hà ư nhất pháp trung
Hữu pháp hữu phi pháp" (Bài kệ Sơ tổ Đại Ca Diếp truyền cho Nhị tổ A Nan)

Tạm dịch: Pháp Pháp xưa nay Pháp, không Pháp không Phi pháp, cớ chi trong pháp ấy, có Pháp có Phi pháp.

Việc Truyền pháp, về biểu tướng đấy là sự thật, bởi có thầy truyền, có trò thừa. Có điều, việc Truyền và Thừa không phải như thế gian nhận diện, tức phải có vật gì đó cụ thể để truyền và thừa. Việc Truyền và Thừa ở đây thuộc về sự tương dung tương liên giữa thầy và trò. Nói rõ hơn, thầy đã thành tựu với Phật tính bản lai vốn có của tự thân. Phật tính đó Trò cũng có, tất cả chúng sinh cũng có.

Đối với trò, nhờ quá trình tu tập của tự thân và sự khuyến phát giáo dưỡng của người Thầy, nay cũng đã thành tựu việc phát lộ và sống với Phật tính sẵn có của tự thân. Vì thế, thầy và trò đồng tương liên, đồng bình đẳng ở yếu tố này, nên bảo là Truyền và Thừa. Việc Truyền Thừa ấy được nói ra một cách minh nhiên mà thuật ngữ chuyên môn gọi là thầy ấn chứng, trò được ấn chứng. Thêm nữa, Thầy chính thức khẳng định là thầy truyền pháp, trò chính thức được thừa pháp. Thầy dặn dò trò phải tiếp tục gìn giữ và lưu truyền đừng để đoạn đứt. Quan trọng hơn, sau sự khẳng định việc Truyền Thừa rồi, luôn nhắc nhớ không có việc Truyền Thừa, để tất cả không rơi vào chấp trước. Như vậy tuy không mà có, tuy có mà không. Bởi thuộc Tướng và Dụng thì có, thuộc Thể thì không. Bài kệ tổ A Nan truyền cho tổ Thương Na Hòa Tu là một minh chứng điển hình:

"Bản lai truyền Hữu pháp
Truyền liễu ngôn Vô pháp
Các các tu tự ngộ
Ngộ liễu vô Vô pháp."

Tạm dịch: Xưa nay truyền Hữu pháp, truyền rồi nói Vô pháp. Ai nấy hãy tự ngộ, ngộ rồi không Vô pháp.

Đặc biệt nhất, tuy nêu rõ có Pháp và Truyền pháp, nhưng vẫn trên nền tảng triết lý cốt lõi của Phật giáo, trong đó có Thiền tông. Phần triết lý Diệu Hữu chính thức được triển khai, nhưng tất cả đều quy về một mối: “Tam giới do Tâm” – “Vạn pháp do Tâm”. Giáo lý Hoa nghiêm – Pháp hoa... được triển hiện, kế thừa và tiếp tục phát huy triết lý duyên sinh của nền Phật giáo Nguyên thủy – Bộ phái.

Song khi vào khung nhận diện của Thiền thì duyên sinh ấy được nhận diện qua nền tư tưởng “tức Tâm tức Phật”. “Tâm dẫn đầu các pháp, Tâm làm chủ tâm tạo...” vốn là giáo lý thống nhất của Phật giáo từ Nguyên thủy trở đi. Sáu vị Phật truyền pháp đã dẫn ở trên cũng nhấn mạnh Tâm. Có điều trong khung của Thiền tông, Tâm được nhận diện cả ở chiều hữu vi lẫn ở chiều vô vi: Tức Tâm tức Phật, tức Tâm tức Pháp. Nhưng Hữu vi ở đây chính là Tướng và Dụng thuộc Bản Thể Tâm, Đại thừa Tâm. Vì thế:

(1) Tâm – Pháp đồng như nhau, đều vốn thuộc Vô vi, không thể diễn đạt một cách toàn triệt bằng ngôn ngữ bằng tư duy, chỉ có xác chứng của tự thân.

(2) Tâm như Hư không, rộng lớn, hàm dung nhưng lại không thể nắm bắt, diễn tả.

(3) Chỉ vì lòng từ bi vô lượng, phương tiện thiện xảo của Phật – Tổ nên tạm dùng ngôn ngữ, mượn khái niệm để biểu đạt ra. Và một khi đã biểu đạt ra thì đều thuộc Hữu vi. Và đã là Hữu vi thì đều thuộc Duyên sinh pháp, có hiện hữu có hoại diệt, không có gì gọi là chứng là đắc là tu là ngộ, không thể bám chấp;

(4) Nếu thấy có chứng có đắc thì Tâm – Pháp ấy không thuộc Bản Tâm - Bản Pháp, thật sự không hiểu được Thật pháp. Thật sự thống nhất, dù dùng thuật ngữ gì, khái niệm gì!

"Tâm tự bản lai tâm
Bản tâm phi hữu pháp
Hữu pháp hữu bản tâm
Phi tâm phi bản pháp" (Bài kệ truyền pháp của tổ thứ 4 cho tổ thứ 5)

Tạm dịch: Tâm chính là bản tâm, Bản tâm chẳng có Pháp, có Pháp có Bản tâm, chẳng (phải Bản) tâm chẳng (phải) bản pháp. Tâm – Pháp đồng như nhau.

"Tâm đồng Hư không giới
Thị đẳng Hư không pháp
Chứng đắc Hư không thời
Vô thị vô phi pháp" (Bài kệ tổ thứ 8 truyền cho tổ thứ 9)

Tạm dịch: Tâm ví như Hư không, Pháp cũng như Hư không, chứng đắc Hư không rồi, không Pháp không Phi pháp. Tâm như Hư không.

"Thông đạt bản tâm pháp
Vô pháp vô phi pháp
Ngộ liễu đồng vị ngộ
Vô tâm diệc vô pháp" (Bài kệ truyền pháp của tổ thứ 5 cho tổ thứ 6)

Tạm dịch: Thông đạt Tâm – Pháp gốc, không Pháp không phi pháp, ngộ rồi như chưa ngộ, không Tâm cũng không Pháp. Không có gì gọi là chứng là đắc là tu là ngộ

"Vô tâm vô khả đắc
Thuyết đắc bất danh pháp
Nhược liễu tâm phi tâm
Thủy giải tâm tâm pháp" (Bài kệ truyền pháp của tổ thứ 6 cho tổ thứ 7)

Tạm dịch: Không Tâm không chứng đắc, nói đắc chẳng phải Pháp, nếu tỏ Tâm chẳng (phải) Tâm, mới hiểu Tâm – Tâm pháp. Nếu thấy có chứng có đắc thì Tâm – Pháp ấy không thuộc Bản Tâm - Bản Pháp. Và như vậy, tất cả những gì hai tướng đúng sai, được mất, chân ngụy, giải thoát hay trói buộc... của Hữu vi pháp đều không có gì để bám chấp.

Gom tất cả những điều trên bằng sự minh chứng cụ thể trong bài kệ Bát bất của Bồ tát Long Thọ từ Trung quán luận:

"Bất sinh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn
Bất nhất diệc bất dị
Bất khứ diệc bất lai" [74, tr. 25]

Tạm dịch: Không sinh cũng chẳng diệt, không một cũng chẳng khác, không thường cũng chẳng đoạn, không đến cũng chẳng đi. Tất cả những tư tưởng này được đưa ra, cốt để: “Phật bảo Tu Bồ Đề! Bồ tát khi ngồi ở đạo tràng, quán 12 nhân duyên như hư không, không thể cùng tận...”. Sau khi Phật diệt độ, khoảng 500 năm, trong thời Tượng pháp, con người căn cơ lần ngu độn, chấp sâu các pháp, tìm tướng quyết định của 12 duyên sinh, của 5 ấm, 12 nhập, 18 giới... không biết được ý của Phật, chỉ đắm trước trên văn tự, nghe trong pháp Đại thừa nói cứu cánh Không, không hiểu vì sao nói Không, liền sinh kiến giải nghi ngờ: Nếu hoàn toàn Không thì làm sao có nhân quả tội phúc... Như vậy làm sao có Thế tục đế và Đệ nhất nghĩa đế, chấp lấy tướng Không rồi đắm trước, nhầm hiểu về cứu cánh Không. Vì những điều ấy, Bồ tát Long Thọ soạn Trung luận này...” [74, tr.26 - 27 ].

Hoặc như Bát nhã tâm kinh: “Xá lợi tử! Thị chư pháp Không tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố Không trung, vô sắc vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ tát y Bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố. Viễn ly điên đảo, mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhã ba la mật đa, thị Đại thần chú, thị Đại minh chú, thị Vô thượng chú, thị Vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư” [52, tr. 45- 47].

Tạm dịch: Xá lợi Phất! Tướng Không của các pháp là không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt... Vì thế trong tướng Không, không có sắc thọ tưởng hành thức, không có mắt tai mũi lưỡi thân ý, không sắc thanh hương vị xúc pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không hết vô minh; không có lão tử cũng không hết lão tử; không khổ tập diệt đạo; không trí cũng không đắc. Vì không có sở đắc nên Bồ tát nương Bát nhã ba la mật đa mà tâm không chướng ngại. Vì tâm không chướng ngại nên không có sợ hãi, xa lìa điên đảo, mộng tưởng, thành tựu Niết bàn. Chư Phật ba đời, cũng nương Bát nhã ba la mật, thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Quả Phật). Nên biết Bát nhã ba la mật đa là Đại thần chú, là Đại minh chú, là Vô thượng chú, là Vô đẳng đẳng chú, trừ hết mọi khổ não, chân thật không dối.

Có thể thấy, tuy không mà có, tuy có mà không. Cần tĩnh tại để nhận diện!

Giáo lý nền tảng – pháp yếu - pháp mạch được truyền thừa Kệ truyền pháp từ tổ thứ 17 đến tổ thứ 27 đã ghi rõ dấu ấn nền Phật giáo Đại thừa trung kỳ. Đó là giáo lý thuộc hệ Như Lai tạng và A lại da tạng. Đây là hai hệ giáo lý hỗ bổ cho tư tưởng Chân Không Diệu Hữu của nền Phật giáo Đại thừa sơ kỳ. Vì ở hệ Như Lai tạng và A lại da tạng, trình hiện cho chúng ta thấy rõ Phật tính bản hữu của thời kỳ trước trú ngụ ở đâu? Tướng trạng do duyên sinh như thế nào? Hoạt động thuộc duyên sinh ra sao? Làm thế nào để thấy được phần nhiễm và phần tịnh, tức hai mặt của hữu vi Tâm thuộc Vọng và Chân? Cách thức chuyển hóa từ nhiễm sang tịnh như thế nào? Và vì sao một khi chuyển hóa thành công thì Tâm – Vọng Tâm, Bát thức sẽ thành Chân Tâm thành Tứ trí (Bốn trí): Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tính trí, Diệu quán sát trí, Thành sở tác trí...?

Nền giáo lý Phật giáo Đại thừa trung kỳ tuy được đánh dấu bằng sự hiện hữu của hai Tôn giả Vô Trước (310 - 390) và Thế Thân (320 – 400) cũng như sự hình thành và phát triển của Du già phái thay cho Trung quán phái của nền Phật giáo Đại thừa sơ kỳ, nhưng hệ tư tưởng hay triết lý Như Lai tạng, A lại da tạng đã hiện hữu từ trước đó, Du già phái hay nền Phật giáo Đại thừa trung kỳ chỉ là chính danh kết tập, biên tập, phổ biến và xác lập mà thôi. Ở nền Phật giáo Đại thừa trung kỳ, “Tâm – Pháp” tiếp tục được nhận diện ở góc độ Hữu vi pháp:

(1) Tâm được gọi là Tâm địa (đất tâm);

(2) Hoạt động của Tâm địa có Chủng tử (hạt giống), có gieo mầm, có trổ hoa kết quả. Người học Phật lúc này cần chọn hạt giống thanh tịnh để gieo thì hoa quả thanh tịnh sẽ hiện hữu;

(3) Biểu Tướng và Dụng của Thanh tịnh Tâm là Tứ trí với hằng hà sa số pháp môn được thiết lập trên nền hằng hà sa số hạnh nguyện “Hoằng pháp thị gia vụ, lợi sinh vi sự nghiệp”.

"Chân Tính Tâm địa tàng
Vô đầu diệc vô vĩ
Ứng duyên nhi hóa vật
Phương tiện ô vi Trí (Bài kệ truyền pháp của tổ thứ 26 cho tổ thứ 27) (Chân Tính – Phật tính – Tâm địa – Trí – Tứ Trí) ...
Tâm địa bản vô sinh
Nhân địa tòng duyên khởi
Duyên chủng bất tương phùng
Hoa quả diệc phục chi" (Bài kệ truyền pháp của tổ thứ 17 cho tổ thứ 18) (Tâm địa (Như lai tạng) – Chủng tử - Hoa Quả)

Tạm dịch: Chân Tính tại Đất Tâm, không đầu cũng không đuôi, hợp duyên tùy hóa vật, phương tiện gọi là Trí... Đất tâm vốn không sinh, nhân đất duyên khởi pháp, duyên giống chẳng ngại nhau, hoa quả cũng như thế. Ở đây, nếu tìm hiểu các kinh luận như: Lăng già kinh, Giải thâm mật kinh, Như lai tạng kinh, Nhiếp đại thừa luận, Duy thức tam thập tụng ... chúng ta sẽ hiểu những ý nghĩa có trong các bài kệ Truyền pháp này.

Nghĩa là đầu tiên khẳng định một cách rất rõ ràng rằng chính Tâm địa (Như Lai tạng) này hàm tàng Phật Tính, hàm tàng sẵn chủng tử thanh tịnh với đủ tướng trạng và công dụng màu nhiệm. Chủng tử ấy xưa nay vốn không sinh không diệt, không một không khác, không thường không đoạn, không đến không đi, cũng không bị nhiễm ô bởi nghiệp lực sinh tử của chúng sinh dù thiện dù ác mà triết lý Bát nhã – Hoa nghiêm của nền Phật giáo Đại thừa sơ kỳ đều đã cho biết. Có điều vì luân hồi sinh tử bao kiếp, phiền não chướng sở tri chướng che lấp càng nhiều, càng sâu càng dày nên hạt giống thanh tịnh không có cơ hội hiển lộ, nảy mầm, ra hoa, kết quả. 9 Thí dụ trong Như Lai tạng kinh giúp khẳng định điều này. Xin nêu Thí dụ cụ thể:

“Này các Thiện nam tử! Có kinh Đại Phương Đẳng tên là Như Lai Tạng. Ta sắp nói cho đại chúng nghe nên hiện ra điềm ấy. Các ngươi nên lắng nghe và chín chắn suy xét! Đại chúng thảy đồng thanh bạch Phật: Sung sướng thay, chúng con xin hoan hỷ đợi nghe. Phật dạy: Này các Thiện nam tử! Như ta biến hóa vô số hoa sen, rồi hốt nhiên sen kia tàn úa, chỉ còn lại vô lượng hóa Phật ngồi kiết già trong hoa, tướng tốt trang nghiêm, phóng ra hào quang rực rỡ; đại chúng trông thấy việc hy hữu ấy, đều sinh lòng cung kính.

Này các Thiện nam tử! Như vậy là ta dùng Phật nhãn quán sát tất cả chúng sinh đang ngụp lặn trong phiền não tham dục, sân nhuế, ngu si, nhưng vốn sẵn có trí Như lai, mắt Như lai và thân Như lai, xếp chân ngồi kiết già, nghiễm nhiên bất động. Này các Thiện nam tử: Hết thảy chúng sinh tuy mang thân phiền não, ra vào sáu đường mà vẫn có Như lai tạng thường không nhiễm ô. Đức tướng của Như lai tạng ấy đầy đủ như ta không khác. Lại nữa, này các Thiện nam tử! Ví như người có thiên nhãn, khi trông hoa chưa nở mà đã thấy được trong hoa kia có toàn thân Như lai ngồi xếp chân kiết già, thì khi trừ bỏ hoa héo đi, liền được thân Như lai hiển hiện.

Như vậy, này các Thiện nam tử! Ta đã thấy Như lai tạng của chúng sinh, lại muốn Như lai tạng ấy hiển hiện, vì thế mà nói kinh pháp”.

[Dẫn theo: https://thuvienhoasen.org/a9488/kinh-dai-phuong-dang-nhu-lai-tang]

Đây chính là Thí dụ dụ về Như Lai tạng – Phật tính sẵn có trong mỗi chúng sinh, nhưng Như Lai tạng ấy vẫn còn chưa hiển lộ. Thuật ngữ chuyên môn gọi Như Lai tạng đã được hiển lộ (đã thành Phật) là Như Lai xuất triền, Như Lai tạng chưa được hiển lộ (còn ở trong chúng sinh) là Như Lai tại triền.

Ngược lại với Như Lai tạng thanh tịnh, những hạt giống nhiễm ô ở trong Thức thứ 8 (Như Lai tạng) ấy luôn được tưới tắm bằng 4 ngã si ngã kiến ngã ái ngã mạn của Thức thứ 7 (Mạt na thức, Nhiễm ô ý, Truyền tống thức), và cứ không ngừng hiện hữu ra qua thân nghiệp khẩu nghiệp ý nghiệp của 6 thức trước (Tiền lục thức), để rồi sau mỗi lần Hiện hành thì Chủng tử lại được tiếp tục huân tập, từ 6 thức trước qua thức thứ 7 đưa vào kho thức thứ 8. Kho thức thứ 8 tiếp tục “Hằng chuyển như bộc lưu” (luôn vận hành và vận hành một cách cấp tốc, vô cùng nhanh, vô cùng mạnh như dòng thác đổ ào ạt, khiến cho mỗi hạt giống sau chu kỳ “Chủng tử sinh Hiện hành, Hiện hành huân Chủng tử” càng mạnh mẽ càng lớn chắc, ra vào vào ra, sinh sinh vô tận, tạo thành hằng hà sa hạt giống lưu chuyển bất tận, chẳng khác nào hằng hà sa hạt nước tạo thành dòng thác ào ạt bất tận kia. Vì thế Kinh Giải thâm mật nêu:

"A đà na thức thậm thâm tế
Nhất thiết chủng tử như bộc lưu
Ngã ư phàm ngu bất khai diễn
Khủng bỉ phân biệt chấp vi Ngã. [26, tr. 81]."

Tạm dịch: Thức A đà na (Thức thứ 8, Như Lai tạng) sâu xa vi tế, tất cả chủng tử, chuyển động nhanh như dòng thác. Như Lai (Phật) không nói cho phàm phu và ngu phu biết, vì sợ chúng phân biệt chấp Thức đó làm Ngã (Bản thể) của mìnhVà đoạn văn tiếp theo trong Kinh Giải thâm mật sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về tám thức, hoạt động của tám thức, cũng như việc đạt ngộ của một Bồ tát:

“Quảng Tuệ ! ông nên biết, sự sinh tử trong sáu đường của bốn loại thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, noãn sinh trước tiên là do chủng tử thức thành thục, triển chuyển, hóa hợp, tuần tự lớn lên với đủ hai loại chấp thọ (giữ gìn và nhận lấy): Sắc căn (chính báo) với sở y (y báo) của sắc căn và chủng tử của danh tướng phân biệt bởi ngôn ngữ hý luận mà thành. Sinh trong thế giới có hình sắc thì đủ hai loại chấp thọ đó; sinh trong thế giới vô sắc thì không đủ.

Quảng Tuệ! Thức ấy cũng có tên là A đà na vì luôn chấp thọ; cũng có tên là A lại da vì luôn đồng hành cùng an cùng nguy với sắc thân; cũng có tên là Tâm vì được tích tụ tăng trưởng bởi sắc thanh hương vị xúc pháp... Hơn nữa Quảng Tuệ! Chính A đà na thức làm nền tảng cho sự phát sinh sáu thức nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý... Thí như dòng nước chảy vừa mạnh vừa lớn nếu có duyên tố nổi một cơn sóng thì một cơn sóng nổi lên, nếu có duyên tố nổi lên hai... nhiều cơn sóng thì sẽ có hai... nhiều cơn sóng nổi lên, bản thân dòng nước thì vẫn chảy mãi không dừng không hết. Lại như mặt gương tốt và sáng, nếu có một hình ảnh thì hiện một hình ảnh, nếu có hai hay nhiều hình ảnh thì hiện hai hay nhiều hình ảnh, mặt gương không biến thành hình ảnh, cũng không hết hiện hình ảnh...

Quảng Tuệ! Bồ tát nhờ Trí pháp trụ mà khéo biết mật nghĩa của Tâm Ý Thức, Như Lai bảo Bồ tát ấy chưa thật sự biết. Bồ tát liễu tri, tuệ tri như thật mà không thấy có A đà na và Thức A đà na, không thấy có A lại da và Thức A lại da, không thấy có tích tập và Tâm tích tập, không thấy có nhãn căn sắc cảnh và nhãn thức, cho đến không thấy có ý căn pháp cảnh và ý thức, đó mới là khéo biết mật nghĩa của Tâm Ý Thức...” [26, tr. 72 - 80].

Bài kệ truyền pháp của tổ đời thứ 17 cho tổ đời thứ 18 cũng thống nhất ý trên:

"Hữu chủng hữu tâm địa
Nhân duyên năng phát manh
Ư duyên bất tương ngại
Đương sinh sinh bất sinh."

Tạm dịch: Có hạt giống có đất tâm, đủ duyên thì nảy mầm, đối với các duyên không bị chướng ngại thì sẽ thấy sự vô sinh ngay lúc sinh. Đấy chính là tuệ tri liễu tri như thật về mật nghĩa của Tâm Ý Thức mà Phật dành cho hàng Bồ tát trong Kinh Giải thâm mật. Tất cả đều nhấn mạnh sự không vướng mắc chấp trước dù là vô vi hay hữu vi...

Và đó cũng là lời dạy của tổ đời thứ 22 dành cho tổ đời thứ 23, hay tổ đời thứ 23 dành cho tổ đời thứ 24...

"Tâm tùy vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u
Tùy lưu nhận đắc tính
Vô hỷ diệc vô ưu...

Nhận đắc tâm tính thời
Khả thuyết bất tư nghị
Liễu liễu vô khả đắc
Đắc thời bất thuyết tri...

Chính thuyết tri kiến thời
Tri kiến câu thị Tâm
Đương Tâm tức tri kiến
Tri kiến tức vu câm..."

Tam dịch: Tâm chuyển theo các cảnh, chỗ chuyển thật sâu mầu, ngay nơi dòng lưu chuyển đó mà nhận được Tính giác thanh tịnh thì không vui cũng chẳng buồn... Khi nhận được Tâm Tính, mới nói là không thể nghĩ bàn, rõ ràng không có gì đạt được, được rồi thì không nói là biết... Chính khi nói Tri kiến (Đại viên cảnh trí), Tri kiến chỉ là Tâm, chính Tâm là Tri kiến, Tri kiến hiện tại thôi... Đó chính là tinh thần của Đại thừa và cũng là của Thiền tông, tự tại vô ngại, không trú chấp Niết bàn, không chán ghét sinh tử, không dừng ở bất kỳ một khái niệm, một danh tướng nào, vì tất cả đều do Tâm. Thế nên tất cả biểu tướng biểu dụng của Phật Phật Tổ Tổ đều chỉ là vì Truyền đăng tục diệm, bất đoạn chủng tử Phật, Thầy trò tương thông tương liên trong cảnh giới này là vậy: Chư Phật Đại viên giám, Nội ngoại vô hà ế, Lưỡng nhân đồng đắc kiến, Tâm nhãn giai tương tợ (Đối thoại của tổ thứ 17 và người học trò La Hầu La Đa: tổ thứ 18).

Tạm dịch: Gương tròn lớn của Phật (Đại viên cảnh trí), trong ngoài không tì vết, hai người đồng thấy được, tâm mắt cũng như nhau.

2.3 Kệ truyền pháp tiêu biểu của Thiền tông Trung Quốc

2.3.1. Bối cảnh và tác phẩm gắn liền với Kệ Truyền pháp

Tác phẩm nguồn gốc cho những bài “Kệ Truyền pháp” thuộc Thiền tông Trung Hoa thật sự phong phú và đồ sộ. Ở đây chỉ trích nêu một số làm biểu trưng. Cuốn Đăng sử ghi nhận chính yếu là Cảnh Đức Truyền đăng lục, ngoài ra còn có một số Ngữ lục cá nhân của một số Thiền sư Trung Hoa các thời.

Về thế thứ truyền pháp được ghị chép trong Cảnh Đức Truyền đăng lục thì vừa có yếu tố khá thống nhất như phần trình bày ở “Kệ truyền pháp tại Ấn”, nhưng vừa có yếu tố khác biệt cho Thiền mạch tại Trung Hoa. Cụ thể Kệ truyền pháp được ghi chép thống nhất như thời 28 tổ sư Ấn Độ được duy trì từ thế hệ thứ nhất đến thế hệ thứ 6, tức từ Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Lục tổ Huệ Năng.

Sau thời Lục tổ Huệ Năng, Kệ truyền pháp không được ghi chép một cách nghiêm cẩn, tùy thời tuy cơ, có khi ghi có khi không ghi. Nhưng từ đầu thời Minh trở đi, chi tiết được tính từ thời Thiền sư Vạn Phong Thời Ủy (1303 – 1381) dòng Lâm Tế thuộc nhánh Dương Kỳ Phương Hội chính thức xuất hiện hình thức ghi kệ truyền pháp nghiêm cẩn. Có điều “Kệ truyền pháp” thời kỳ này đã được bổ sung thêm những chức năng khác, chứ không còn chỉ là chức năng truyền thừa giáo lý – pháp yếu và pháp mạch thuộc phần Lý – Sự trong tu tập chứng đắc. Những nguyên nhân cơ bản cho các nhận định trên gồm:

Từ Sơ tổ đến Lục Tổ: Như trên đã nói, Thiền mạch tại Trung Hoa kể từ thời Tam Tổ Tăng Xán đều có ít nhất hai dòng và mạch hệ cũng truyền thừa khá nhiều như ghi nhận của Cảnh Đức Truyền đăng lục. Thí dụ, đệ tử đắc pháp của Tam tổ gồm có Đạo Tín hoằng truyền tại Trung Hoa, và Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền thừa tại Việt Nam; đệ tử đắc pháp của Đạo Tín không chỉ có Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, mà tổng cộng có đến 183 người, trong đó có 76 người bàng xuất, riêng dòng Kim Lăng Ngưu Đầu sơn được ghi tới 6 đời; Ngũ tổ Hoằng Nhẫn cũng không chỉ có Lục Tổ Huệ Năng được chính mạch truyền thừa, nhánh Bắc truyền là Thiền sư Thần Tú cũng phát triển một thời. Có điều rất nhiều nhánh phụ bàng mà Thiền sử hoặc có ghi chép hoặc không ghi chép. Đặc biệt hơn, trong dòng mạch từ Sơ tổ đến Lục Tổ còn tạo nên một mạch hệ truyền thừa Thiền tông theo Kinh Lăng Già, Thiền sử thường gọi mạch hệ đó là Lăng già sư tư ký, tác phẩm cùng tên.

Từ Lục Tổ Huệ Năng đến hết thời Ngũ đại thập quốc: Lục Tổ được Ngũ Tổ truyền pháp theo tinh thần “Truyền pháp” tại Ấn Độ, nhưng lại chính thức mở ra một thời kỳ mới cho việc truyền pháp. Đó là không truyền Ca sa biểu tín nữa: “Chư Phật xuất thế là việc trọng đại, tùy theo căn cơ cao thấp khác nhau mà chỉ dạy. Vì thế mới có giáo lý mười địa, ba thừa nhanh chậm. Song Thế Tôn đã đem pháp môn thâm diệu vô thượng, thanh tịnh sâu mầu, chính pháp nhãn tạng truyền lại cho Sơ tổ Đại Ca Diếp, lần lượt truyền qua 28 đời. Tổ thứ 28 là Đạt Ma truyền đến Đông Độ này, Khả đại sự kế truyền, lần hồi đến ta. Ta nay trao pháp bảo và Ca sa lại cho ông. Hãy khéo giữ gìn, đừng để đoạn tuyệt. Nghe ta nói kệ: Hữu tình lai hạ chủng, nhân địa quả hoàn sinh, vô tình ký vô chủng, vô tính diệc vô sinh... Xưa lúc đầu Tổ Đạt Ma đến đây, vì chưa có ai tin nên truyền Ca sa (y) để biểu tín. Nay tín tâm đã rộng, Ca sa sẽ là đầu mối cho tranh giành. Vậy nên đến ông thì dừng lại, không truyền nữa....”[4, tập 1, tr.226].

Hơn 37 năm hoằng truyền pháp mạch, Lục Tổ Huệ Năng độ vô số Tăng tục, riêng số người đắc pháp được ghi trong Pháp bảo đàn kinh là hơn 70 người. Thật đúng như tinh thần Tổ bảo: “Có đạo thì Đắc, Vô tâm thì Thông”. Song mạch hệ được mô tả kỹ lưỡng nhất của Lục Tổ Huệ Năng là hai nhánh: Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư. Đây là cách truyền thừa mà Lục Tổ Huệ Năng dành cho Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng: “Từ Sơ tổ Đạt Ma ở Thiếu Lâm đến nay, Y – Pháp truyền trao một lượt từ thầy qua trò ở mỗi đời. Y để biểu tín, Pháp để ấn tâm. Ta nay đã có người truyền thừa, còn lo gì thiếu lòng tin. Ta từ nhận Y đến nay gặp nhiều tai nạn, huống hồ đời sau, tranh giành càng lắm. Do vậy, từ giờ Y để trấn sơn môn. Ông nên nhận Pháp yếu, phân hóa một nơi, đừng để đoạn tuyệt”; “Chỉ có cái không nhiễm ô là điều mà chư Phật hộ niệm. Ông như thế, ta cũng như thế. Lời dự ký của Tổ Bát Nhã Đa La Tây Thiên rằng: Dưới chân ông xuất hiện ngựa tơ, đạp chết người trong thiên hạ. Tâm ông hiểu là đủ, không nên gấp nói”[4, tập 1, tr. 397; 403].

Ta thấy rõ sự nhấn mạnh việc kế truyền pháp mạch, đặc biệt pháp mạch từ nhánh Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng. Từ hai nhánh chính yếu trên, Thiền mạch Nam phương Trung Hoa được tiếp tục tạo thành Ngũ gia và Thất tông. Nhánh Nam Nhạc Hoài Nhượng tạo thành Lâm Tế gia và Quy Ngưỡng gia. Nhánh Thanh Nguyên Hành Tư tạo nên: Tào Động gia – Vân Môn gia và Pháp Nhãn gia. Từ Lâm Tế gia, truyền mạch đến đời thứ 6: Thạch Sương Sở Viên, pháp mạch được chia thành hai tông: Hoàng Long Tuệ Nam và Dương Kỳ Phương Hội. Thuật ngữ Ngũ gia Thất tông là dựa theo mạch hệ này. Song, bàng hệ của Thiền tông Nam phương có thể nói là tiếp tục tạo mới và phát triển nhiều vô số kể. Chỉ vì pháp mạch chính yếu quá mạnh, quá trứ danh nên Thiền sử chỉ chú trọng chính mạch mà thôi. Luận án cũng vì thế chỉ đề cập những bài kệ tiêu biểu của chính mạch này.

Một yếu tố khác biệt nữa ở hệ mạch Thiền tông Trung Hoa sau thời Lục Tổ Huệ Năng là: Hệ mạch được truyền thừa khá sống động, cách thức truyền pháp giữa Thầy và Trò thật sự rất linh hoạt, không theo một khuôn mẫu cố định. Điều này khá đúng suốt thời Đường qua thời Ngũ đại thập quốc và kéo dài đến cuối thời Bắc Tống. Nguyên nhân có lẽ vì từ thời Lục Tổ Huệ Năng hoằng pháp, nhà Đường bước vào thời kỳ Võ Hậu quản trị quốc gia, hoàng thân quốc thích và quan lại cấp cao nhà Đường không ít thành phần chống đổi, không chấp nhận sự hiện hữu của một Nữ vương.

Tình hình đó kéo dài suốt thời Vãng Đường, mười quốc gia thuộc hai phương Nam Bắc của thời Ngũ đại được hiện hữu là kết quả của sự loạn lạc kia. Song cũng chính trong tình hình loạn lạc đó, người thật tài, người thật anh kiệt mới khẳng định được giá trị của tự thân. Võ Hậu mở rộng cửa sử dụng người tài, không phân biệt đẳng cấp, giới tính, coi trọng sự phát triển quốc gia trên mọi lĩnh vực: Chính trị - quân sự - văn học - võ thuật - kinh tế - văn hóa... Riêng về Tôn giáo Phật giáo, đến thời Võ Hậu, 13 tông tiêu biểu của Phật giáo: Luật tông – Thiền tông – Hoa Nghiêm tông – Pháp tướng tông – Thiên Thai tông... chính danh hình thành và phát triển.

Vì thế, các Tổ sư trong Thiền tông phương Nam lúc này thật sự kỳ đặc, vừa có những nét sống động trong tu tập chứng đắc theo phong thái thời Phật Thích Ca Mâu Ni tại thế, vừa có những nét rất riêng Trung Hoa. Bởi chư sư thời Nguyên thủy Phật giáo Ấn chỉ chứng đắc đến 4 quả Sa môn, còn các Thiền sư thời Thiền tông Nam phương Trung Hoa lại hướng đến quả Giác ngộ toàn triệt.

Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội, họ học Phật cũng từ nhiều tông phái khác nhau, họ đắc pháp Thiền tông cũng bằng nhiều phương tiện thiện xảo – cách thức khác nhau, người thì thấy hoa đào nở liền triệt ngộ, người soi bóng mình dưới dòng sông khi đi qua cầu liền ngộ, người thì bị đánh dập chân ngộ, người thì thấy ngón tay ngộ... Việc truyền pháp vì thế cũng không theo một mô thức cố định dù bên cạnh Thanh quy của Thiền tông đã hiện hữu: Bách Trượng thanh quy.

Họ triển hiện một cách sống động nhất, phong phú mầu nhiệm nhất triết lý: “Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp” của hệ Bát Nhã và hệ Hoa Nghiêm. Ta thấy có Thiền sư làu thông Tam tạng như Hương Nghiêm Trí Nhàn (724- 814), nhưng khi gặp Quy Sơn Linh Hựu hỏi một câu về bản lai diện mục khi cha mẹ chưa sinh thì không lối thoát, để rồi phải đốt hết sách vở, về núi ẩn tu, làm một Tăng nhân bình thường, cuối cùng triệt ngộ nhờ gặp bước nhảy vọt tình cờ khi nghe âm thanh phát ra của sự va chạm giữa viên sỏi và bụi trúc mà bài kệ ngộ đạo của ông đã minh chứng:

"Nhất kích vong sở tri,
Cánh bất giả tu trì,
Động dung dương cổ lộ,
Bất đọa tiểu nhiên ky.

Xứ xứ vô tung tích,
Thanh sắc ngoại oai nghi,
Chư phương đạt đạo giả,
Hàm ngôn thượng thượng ky" [66, tập 2, tr114;121].

Ta lại thấy Lâm Tế Nghĩa Huyền làu thông Nho – Phật – Đạo, không kinh luật luận nào không học, thế mà bí lối khi tìm hỏi về Đại ý Phật pháp ở chỗ sư phụ Hoàng Bá Hy Vận. Sau ba phen bị ăn hèo, cuối cùng nhờ cuộc đối đáp ngắn gọn đơn giản giữa bản thân và Thiền sư Đại Ngu, sự nghiệp học Phật toàn triệt đã được giải quyết, trở thành một vị Tổ sư cự phách, kế thừa pháp mạch của Hoàng Bá Hy Vận thuộc dòng Nam Nhạc Hoài Nhượng, tạo nên dòng mạch vững chãi cho đến ngày nay... Hay như Đức Sơn Tuyên Giám (780 – 865) vốn xuất thân từ một Pháp sư chuyên giảng dạy Kim Cang kinh, phẫn nộ trước việc các Thiền sư phương Nam trọn ngày bảo “tức tâm tức Phật”, trong khi kinh giáo luôn dạy phải trải qua hằng hà sa số kiếp tích lũy phúc tuệ mới có thể thành Phật, ông quãy cả gánh Kim cang kinh sớ sao, quyết đi về phương Nam, tẫn mấy con ma đấy.

Nhưng ngay cả một bà già bán nước bên vệ đường nhỏ trên đường đến Long Đàm cũng đủ sức làm bí lối ông khi ông mua điểm tâm (món ăn sáng nhẹ). Bà già dẫn câu kinh quen thuộc ông hằng giảng: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc” để hỏi: Thầy điểm tâm nào? Một lối dùng chữ vô cùng khéo léo! Quá trình gặp Long Đàm Sùng Tín, thiền tập cùng thầy, cuối cùng ông đã bừng ngộ qua việc Sùng Tín trao cây đèn sáng và liền tắt phụt khi ông đưa tay cầm... Sau đó ông được thầy Sùng Tín thụ ký: “Trong chúng đây có một gã răng như kiếm bén, miệng dường chậu máu, đánh một gậy chẳng ngó lại, khi khác y lên ngọn núi cao, dựng lập đạo của ta” [66, tập 2, tr.126].

Từ thời Bắc Tống cho đến các thời Nguyên - Minh – Thanh: Tình hình chính trị quốc gia trải qua lúc ổn định lúc loạn lạc, lúc thịnh lúc suy. Song Nho gia luôn được đề cao trong đời sống chính trị. Nghĩa là ngoài Hoàng thân quốc thích, quan lại trong sáu bộ của triều đình hầu hết đều bắt nguồn từ giới sỹ phu. Từ thời Nam Tống, cái học Trình – Hy hay còn gọi là Lý học được xác lập vị thế và chính thức phát triển. Đời sống chính trị xã hội lấy tri thức đỗ đạt ở các khoa cử làm chính. Học phong bị đóng khung theo một lề lối cố định, khoa cử, quan trường... đều được y cứ theo điển lễ Nho gia.

Đặc biệt hơn, sau khi nhà Minh đánh đuổi được nhà Nguyên (Bắc địch) – mọi rợ phương Bắc, người Trung Nguyên lúc này đã trải nghiệm qua những bất an, những ô nhục do lũ Di – Địch tạo nên, họ không thể không cố gắng thiết lập và gìn giữ một cái khung cho riêng mình. Cái khung đó bảo đảm được “Gia phong” của người Hán.

Vì thế, ngoài việc kế thừa và phát huy toàn bộ cái học Trình Chu thời Tống, tiếp tục khẳng định, tiếp tục xác lập học phong và triết lý tư tưởng, đẳng cấp đạo đức xã hội.. theo mô thức Lý học Tống, tạo nên thời hoàng kim của Lý học Tống Minh, họ còn thiết lập nhiều khung bảo vệ từ phương diện quân sự, kinh tế, văn hóa... khác, nhằm chuyển hóa những giá trị tốt đẹp của phiên ngung thành sở hữu của mình, thủ tiêu những thứ có nguy cơ đối với thiên triều... Nhà Nguyên – Nhà Thanh tuy không phải là người Hán, nhưng khi quản trị Trung Nguyên, họ đều rập khuôn thể chế chính trị từ đời Tống, thể chế của người Hán, vừa lợi dụng được thể chế chính trị khá toàn diện cho việc duy trì trật tự của giới cầm quyền – vương triều, vừa tận dụng được người tài của người Hán, dùng người Hán quản trị người Hán, quốc gia như thế sẽ dễ ổn định và phát triển.

Thiền tông lúc này không còn cực thịnh tự tại như trước đó, tức là không còn tự do phát triển, không còn “nhất nhật bất tác nhất nhật bất thực”, tự cấp tự túc. Tất cả đều phải được kiểm soát chặt chẽ theo thể chế chính trị của triều đình. Vì thế, Thiền tông một mặt biên tập tác phẩm của Thiền tổ thời trước, mặt khác phát huy học phong một thời vàng son của Thiền tổ thời trước, vừa khẳng định mạch hệ, vừa nương tựa pháp tu.

Các loại hình tác phẩm Đăng sử được tiếp tục ra đời: Truyền pháp chính tông ký (1061) của Phật Nhật Khế Tung, Nhân thiên nhãn mục (1188) của Hối Nham Trí Chiêu; Ngũ đăng hội nguyên (1252) của Đại Xuyên Phổ Tế, Phật Tổ lịch đại thông tải (1341) của Mai Ốc Niệm Thường..., đặc biệt nhất là các loại Thiền điển khẳng định “Gia phong”, “Thiền mạch” riêng của Ngũ gia Thất tông hoặc chỉ riêng của Lâm Tế - Tào Động được phát triển mạnh mẽ, như Hoàng Long tứ gia lục (1142), Từ Minh tứ gia lục (1153), Mã Tổ tứ gia lục (1085), Đức Sơn Tứ gia lục..., Ngũ gia chính tông tán (1125) của Hy Tẩu Chiêu Đàm, Ngũ gia tông phái của Đạt Quan Đàm Dĩnh, Tông môn thống yếu tục tập (1320) của Cổ Lâm Thanh Mậu, Ngũ đăng nghiêm thống của Phí Ẩn Thông Dung, Thiền đăng thế phổ của Mộc Trần Đạo Mân, Ngũ gia ngữ lục của Ngữ Phong Viên Tín (1571 – 1647) và Quách Ngưng Chi.

Sư tổ Đạt Ma. Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa (sưu tầm).

Sư tổ Đạt Ma. Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa (sưu tầm).

2.3.2. Giáo lý nền tảng – Pháp yếu – Pháp mạch

Giáo lý pháp yếu pháp mạch thuộc hệ Như Lai tạng – A lại da tạng tiếp tục được kế truyền bởi Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma nhưng rất đậm chất khai tông lập phái. Bồ Đề Đạt Ma trình hiện cho ta một bài “Kệ Truyền pháp” thật đúng với tư cách của người “khai tông lập phái” trên vùng đất mới.

"Ngô bản lai tư độ
Truyền pháp cứu mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành."

Ông không chỉ khẳng định các yếu tố cơ bản của một tông phong: Tổ sáng lập (Ngô: Bản thân Bồ Đề Đạt Ma); hệ thống Tổ sư truyền thừa (Nhất hoa – Ngũ Diệp); Triết lý – Giáo pháp chuyên biệt (Lý: Cứu độ chúng sinh mê, Sự: Gieo hạt giống – Cây sinh Hoa Quả. Kinh điển cụ thể: Lăng già kinh); Không gian hoằng pháp (Trung Hoa), mà còn xác lập một học phong rất rất mới – Truyền Lăng già kinh. Kinh này tuy là một trong các kinh được xếp vào nguồn gốc của hệ Du già, Duy thức tông. Song theo chúng tôi, Kinh này sở dĩ được Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma chọn làm bản kinh truyền thừa là vì những lý do sau:

Thứ nhất, Lăng già kinh triển hiện triết lý Như Lai tạng và A lại da tạng nền tảng như: Tàng thức, Tám thức, ba tự tính, ba vô tính, hoạt động giữa A lại da và 7 chuyển thức, và cách thức tu tập nội chứng Thánh trí tự giác. Người học Phật – Thiền sư cần tuệ tri như thật rằng: Tàng thức được ví như “biển lớn” với những đặc tính thâm mật khó lường khó biết, chỉ vì “gió cảnh giới” thổi vào nên 7 loại chuyển thức ào ạt sinh khởi từng lớp từng lớp sóng, khiến chúng sinh không ngừng trôi lăn trong sinh tử luân hồi: Biển tàng thức sâu lặng, gió cảnh giới thổi vào, lớp lớp bảy sóng thức, ào ạt xô nhau sinh.

Thứ hai, tất cả các pháp Thế gian – Phật pháp – Thật pháp được tóm thâu trong 5 thuật ngữ: Danh – Tướng – Vọng tưởng – Chính trí – Như Như. Thuật ngữ Lăng già gọi chung là Ngũ pháp. Danh – Tướng – Vọng tưởng là Hữu vi pháp thuộc Thế gian. Nghĩa là tất cả cái gọi là Ngã – Pháp hay Nhân sinh – Vũ trụ (Y tha khởi) chỉ là những khái niệm giả lập gồm hai phần hình thức và nội dung được công thức hóa bởi Vọng tưởng (Biến kế sở chấp tính) thuộc biệt nghiệp và cộng nghiệp; Danh – Tướng – Chính trí là Hữu vi pháp thuộc Phật pháp. Nghĩa là Sa môn quả - Bồ tát quả - Phật quả (Ngã) và Giáo lý đưa đến các quả đó (Pháp) chỉ là các giả lập pháp từ Trí tuệ chân chính của các đức Như Lai... Tất cả đều nhằm hướng đến chuyển “Vọng” để trở về “Chân” vì Như Như (Viên thành thật) là Bản tính Phật tính sẵn có nơi Phật và chúng sinh, không khác không một.

Thứ ba, Lăng già tóm thâu toàn bộ giáo lý Phật giáo từ Nguyên thủy qua Bộ phái đến Đại thừa. Chỉ cần đọc kỹ Lăng già, người học sẽ thật sự làu thông tất cả Tứ đế - Thập nhi duyên sinh – 37 phẩm trợ đạo – Tính Không – Tướng Không... Kinh – Luật – Luận của pháp Phật và tất cả thế gian pháp... trong 108 câu hỏi đáp giữa Phật và Bồ tát Đại Huệ.

Thứ tư, Lăng già được triển hiện bằng hình thức đối đáp theo kiểu: Ly tứ cú, Tuyệt bách phi, nghĩa là không bị vướng vào triết lý Nhị Kiến: Có – Không – Vừa có vừa không - Không phải có không phải không, không phải một không phải khác, không thường không đoạn, không nhiễm không tịnh, không tăng không giảm... Và điều đó cho phép người học Thiền chứng đắc quả Phật khi vượt trên cái nhìn nhị kiến, chỉ cần tuệ tri như thật, chỉ cần đối cảnh vô tâm. Người học Thiền cũng nương cách này của Lăng già mà tạo lập cho mình phong cách đối thoại giữa thầy trò: Hỏi trắng dùng đen đáp, hỏi thanh tịnh dùng nhiễm ô đáp... Nên khi Huệ Khả bảo tâm bất an, Bồ đề bảo đã an tâm nhưng phương pháp là tự Huệ Khả lục tìm cái tâm bất an, khi lục tìm không được thì tự tâm an, tức là vắng bặt mọi tình giải, mọi nhận diện nhị kiến thông thường...;

Cuối cùng, Lăng già là kinh khẳng định rõ tính bất toàn, tính bất lực của ngôn ngữ khái niệm. Ngôn ngữ khái niệm vẫn là hữu vi pháp nên không thể diễn tả một cách trọn vẹn chuẩn xác Phật tính bản hữu nói riêng, hữu vi pháp nói chung. Thật sự đây là cú đánh thẳng vào nền Phật giáo đang coi trọng chú giải, luận biện, sớ sao đang thịnh hành tại Trung Hoa. Bồ Đề Đạt Ma thiết lập tông chỉ: Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật cũng dựa trên Lăng già kinh. Điều này cho phép người học Phật làu thông Ngũ minh học... nhưng chỉ cần không vướng chấp, không vọng tưởng phân biệt, luôn dùng Chính tri xuất phát hiển lộ từ Như Như thì sẽ tự tại vô ngại, tự độ độ tha, thành tựu tức tâm tức Phật ngay trong cuộc đời này.

Giáo lý pháp yếu pháp mạch thuộc hệ Như Lai tạng – A lại da tạng tiếp tục được kế truyền từ Nhị tổ Huệ Khả đến Lục tổ Huệ Năng nhưng khẳng định việc thiết thực. Năm cánh hoa tiếp theo đều tiếp tục kế thừa những gì Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền trao. Song, cả năm vị Tổ đều chú trọng việc: Cần có Thiện tri thức – Cần có Minh sư đến gieo hạt giống, đến kích phát hạt giống từ nơi đất tâm bản hữu, làm mưa tuôn để hạt giống có cơ hội nảy mầm sinh cây ra hoa kết quả một cách chuẩn chỉnh.

Bởi tất cả họ đều khẳng định rằng giữa muôn ngàn pháp Phật hiện hữu trên đất Trung Hoa, pháp mà Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền trao mới thật sự đủ năng lực, đủ sức mạnh khiến họ bừng tỉnh, khiến họ nhận diện đường đi lối bước một cách rõ ràng. Họ không chỉ thấy Phật tính sẵn có nơi mình “Gia trung hữu bảo”, “Như Lai tàng trong chúng sinh”, “Như Lai tại tiền ngay trong tứ đại thân này, ngay trong Thế gian pháp này”, họ không cần phải đợi “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc, bởi Niết bàn an lạc luôn hiện hữu ngay trong sinh diệt”. Họ thật sự biết chuẩn cách thức hạ thủ công phu, phát lộ tịch diệt ngay trong sinh diệt, chuyển Thức thành Trí ngay trong cuộc sống thường nhật.

Sáu căn vẫn tiếp xúc với sáu trần, thân khẩu ý vẫn hoạt động, nhưng chỉ dừng ở Thức biết Hiện lượng, đôi khi Thức biết thuộc Tỷ lượng, năm thức trước chỉ cần phân biệt cảnh một cách tổng quát, rằng đây là sắc, đây là thanh, là hương vị xúc, đệ lục thức chỉ cần phân biệt cảnh – pháp trần đó tinh tế hơn tầng nữa rằng đây là sắc trắng, sắc xanh, đây là tiếng người tiếng chim, mùi hương chiên đàn mùi hương trầm thủy..., đệ thất thức chỉ cần thêm bình đẳng tính rằng sắc là sắc thanh là thanh... thì rồi truyền vào kho đệ bát thức, hạt giống ở đó sẽ là Y tha chân chính và viên thành chân chính khi gặp tướng phát dụng.

Cứ thế miệt mài, những phần nhiễm của Kho A lại da không còn, phần tịnh luôn hiện hữu, chúng sinh tức Phật, phiền não tức Bồ đề ngay trong đời này, và tới đây người học Phật, trọn vẹn Tức Tâm Tức Phật, không cần phải trải qua 3 a tăng kỳ kiếp tu tập của Phật giáo Nguyên thủy – Bộ phái, hoặc không cần trải qua 53 tầng bậc Bồ tát đạo của Phật giáo Đại thừa sơ kỳ, hoặc không cần trải qua Thập địa Bồ tát đạo của Phật giáo Đại thừa trung kỳ - Duy thức phái.

Những bài Kệ truyền pháp của 5 Tổ đều thống nhất tư tưởng này:

"Bản lai duyên hữu địa
Nhân địa chủng hoa sinh,
Bản lai vô hữu chủng,
Hoa diệc bất tằng sinh" (bài kệ của Nhị tổ)

"Hoa chủng tùy nhân địa,
Tùng địa chủng hoa sinh
Nhược vô nhân hạ chủng,
Hoa địa tận vô sinh." (bài kệ của Tam tổ)

"Hoa chủng hữu sinh tính,
Nhân địa hoa sinh sinh.
Đại duyên dữ tín hiệp,
Đương sinh sinh bất sinh" (bài kệ của Tứ tổ)

"Hữu tình lai hạ chủng,
Nhân địa quả hoàn sinh.
Vô tình diệc vô chủng,
Vô tính diệc vô sinh." (bài kệ của Ngũ tổ)

"Tâm địa hàm chư chủng,
Phổ vũ tất giai manh.
Đốn ngộ hoa tình dĩ,
Bồ đề quả tự thành" (bài kệ của Lục tổ)

Từ Tâm địa (Như Lai tàng) với đủ Thể đại – Tướng đại – Dụng đại màu nhiệm, siêu việt ngôn ngữ khái niệm, siêu vượt tư duy phân tích, trải qua hằng hà sa số kiếp không sinh không diệt, không thêm không bớt, ở Phật ở bậc giác không tăng, ở chúng sinh ở kẻ si không giảm, Phật – Bồ tát - Thiện tri thức – Minh sư... thị hiện ở đời, dùng vô lượng vô biên phương tiện thiện xảo, khai hiển Nhân thừa pháp – Thiên thừa pháp – Tam thừa pháp, cuối cùng là Phật thừa pháp, nhằm chuyển hóa chúng sinh.

Thiền tông hướng thượng, trực chỉ nhân tâm, tuy có chỉ có dạy, nhưng vẫn chỉ là mưa pháp, chúng sinh ngộ hay không là phải dựa vào tự thân, tự nội chứng thánh trí, pháp Phật dù mầu nhiệm thế nào vẫn chỉ là phương tiện, nhưng muốn triệt ngộ thì cần phải đốn ngộ, ngay nơi tự thân Thiền gia phải vừa nhận ra Phật tính bản hữu vừa chuyển hóa tự thân trong từng ý nghĩ, lời nói, hành động của ba nghiệp thân khẩu ý. Vì thế bổ củi gánh nước, trồng trà, nấu cơm... không gì không là biểu tướng của Phật.

Giáo lý pháp yếu pháp mạch của các Tổ thời Ngũ gia Thất tông mạch hệ không còn đơn truyền nữa, hoa trái đã thật sự sum suê, Thiền mạch lúc này vô cùng phong phú như phần nguồn gốc trên đã nêu. Song, vẫn có những điểm được hiển hiện để những ai khi thâm nhập nghiên cứu và hạ thủ công phu theo Thiền tông thì đều nhận diện rõ ràng.

Cụ thể, kể từ hai vị đại đệ tử Lục Tổ Huệ Năng là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng hoằng pháp, năm dòng mạch được hình thành: Vân Môn – Tào Động – Pháp Nhãn – Quy Ngưỡng – Lâm Tế. Việc truyền thừa pháp mạch không còn chỉ đơn thuần gói ghém trong bài Kệ Truyền pháp, mà được hiển hiện bằng “Gia phong” của mỗi dòng. “Gia phong” đó được nêu rõ ràng trong quá trình hoằng pháp của các Tổ sư của mỗi dòng, và được tiếp tục kế thừa qua các thời kỳ.

Thí dụ, Lâm Tế tông truyền thừa mạch hệ Gia phong qua “Tam cú – Tam huyền – Tứ liệu giản”; Vân Môn tông thì có Tam cú đặc trưng: “Phú cái càn khôn cú, Triệt đoạn chúng lưu cú, Tùy ba trục lãng cú”; Tào Động tông thì có Ngũ vị quân thần: “Chính trung thiên – Thiên trung chính - Chính trung lai – Thiên trung chính – Kiêm trung đáo”... Và những Gia phong đặc trưng này đến thời Tống, các Tổ Thiền tông đúc kết như sau: Lâm Tế tông thống khoái; Quy Ngưỡng tông nghiêm cẩn; Vân Môn tông cổ kính; Tào Động tông tế mật; Pháp Nhãn tông minh bạch. Những “Gia phong” đặc trưng này tuy mỗi nhà một vẻ, nhưng đích đến cuối cùng của một Thiền sư vẫn chỉ là Lên ngọn Cô phong, dựng cái am nhỏ, không trồng một hạt gạo, không bón một cộng rau, tiếp đãi khách thập phương hữu duyên, vì họ tháo cái mũ hôi thối, cởi cái áo mỡ màng, tháo đinh nhổ chốt, khiến cho họ thong dong tự tại, làm một người vô sự.

Lâm Tế Nghĩa Huyền truyền pháp cho đệ tử Tam Thánh Huệ Nhiên được ghi lại trong Đăng sử giúp minh chứng phần nào “Gia phong” của ông: “Sư sắp tịch, ngồi yên bảo: Sau khi ta tịch chẳng được diệt mất chính pháp nhãn tạng của ta. Tam Thánh Huệ Nhiên thưa: Đâu dám diệt mất chính pháp nhãn tạng của Hòa thượng. Sư hỏi: Về sau, có người hỏi, ngươi đáp thế nào? Tam Thánh liền hét. Sư bảo: Ai biết chính pháp nhãn tạng của ta đến bên con lừa mù này diệt mất. Sư nói kệ truyền pháp:

"Diên lưu bất chỉ vấn như hà
Chân chiếu vô biên thuyết tợ tha
Ly tướng ly danh như bất bẩm
Xuy mao dụng liễu cấp tu ma...” [66, tập 2, tr.95]

Tạm dịch:

"Theo dòng chẳng dứt hỏi thế nào,
Chân chiếu không ngằn nói giống ai,
Lìa tướng lìa danh như chẳng nhận,
Gươm bén dùng rồi gấp gấp mài."

Nếp nhà của Lâm Tế là “Tiếng Hét”. Tam Thánh kế thừa cũng bằng “Tiếng Hét”. Như vậy, thầy trò tương thông tương liên, và chính pháp nhãn tạng không diệt mất. Bởi vì, chính pháp nhãn tạng mà đức Thích Ca truyền cho Đại Ca Diếp, 28 tổ Ấn Độ thừa truyền, 6 tổ Trung Hoa tiếp chuyển, đến họ vẫn không có gì khác. Tất cả đều hướng đến một mục đích: Nhận diện Phật tính bất sinh bất diệt ngay trong dòng sinh diệt. Phật tính đó vượt ngoài Danh – Tướng, không thể nói cụ thể là gì, giống ai, vì “Bản lai vô nhất vật”, “Nói một vật là chẳng trúng”, nhưng cũng từ Danh – Tướng ấy mà nhận ra Bản Tính. Có điều, dụng tướng thì khác nhau, không bám chấp, cần Đối cơ, không lặp lại, bởi “mỗi lần nêu ra một lần mới”. Vì thế, thanh gươm Kim cương trí – Thanh bảo kiếm chém đứt tia sáng chém đứt sợi lông cần được sử dụng hợp thời hợp cơ mới phát ra diệu dụng.

Một điều đáng quan tâm nữa là, nền giáo pháp – pháp yếu – pháp mạch của Ngũ gia Thất tông này thường được thể hiện qua các loại hình “Kệ thị tịch” thay cho Kệ Truyền pháp. Ở đó, Thiền sư đúc kết tuệ tri một đời tự thân, thể hiện sự tự tại vô ngại của một bậc đã trở về nhà vô vi, đã thành tựu việc sống với lẽ bất sinh bất diệt ngay trong dòng sinh diệt. Qua đó, Thiền sư nhắn nhủ lại môn đồ, đệ tử, những người có duyên vừa nhận diện được bốn pháp yếu: Vô thường – Vô ngã – Bất tịnh – Khổ của hữu vi thế gian pháp, vừa nhận diện được Tam pháp ấn hoặc Tứ pháp ấn của giáo pháp nhà Phật: Không – Vô tướng – Vô tác – Vô nguyện. Cuối cùng, nhận diện một cách triệt để rằng mục đích rốt ráo nhất của người học Phật là trở về Thật pháp, sau đó tiếp tục truyền đăng tục diệm, thực hiện hạnh nguyện mà chư Phật – Bồ tát – Tổ sư bao đời bao nơi đều đã đang sẽ thực hiện: “Hoằng pháp thị gia vụ, lợi sinh vi sự nghiệp”.

Bài kệ của Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch (804 – 899) thuộc Quy Ngưỡng tông phần nào minh chứng cho nhận định trên:

"Niên mãn thất thập nhất
Lão khứ thị kim nhật.
Nhậm tính tự phù trầm,
Lưỡng thủ phan quật tất. "[66, tập 2, tr.112-113].

Tạm dịch:

"Năm tròn bảy mươi bảy,
Chính là ngày ta đi.
Tùy tính tự chìm nổi,
Hai tay bó gối ngồi. "

Bảy mươi bảy năm trọn vẹn một đời học pháp tu pháp chứng pháp hoằng pháp. Nhận ra Bản Tính bất sinh diệt trong dòng chìm nổi sinh diệt. Khi việc truyền đăng đã có người thừa tiếp, chính pháp đã lưu truyền, tự tại ra đi.

2.4 Kệ truyền pháp tiêu biểu của Thiền tông Việt Nam

2.4.1. Bối cảnh và tác phẩm gắn liền với Kệ Truyền pháp

Nguồn gốc cho bảng thống kê Kệ truyền pháp tiêu biểu của Thiền tông Việt Nam chính là tác phẩm Thiền uyển tập anh. Cuốn Đăng sử này được ra đời vào thời nhà Trần, ghi chép về Thiền mạch của ba dòng: Pháp Vân (Tỳ Ni Đa Lưu Chi) – Kiến Sơ (Vô Ngôn Thông) – Thảo Đường. Song chỉ có hai dòng mạch đầu là đủ hình thức cơ bản của một Đăng sử như Cảnh Đức Truyền đăng lục, và trật tự dòng mạch bắt đầu là dòng Kiến Sơ dù dòng này hình thành sau dòng Pháp Vân. Vì thế, Kệ truyền pháp của hai dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông mới được hiện hữu. Riêng về Kệ truyền pháp của phái Trúc Lâm được trình bày ở phần chương sau. Xin nêu mấy đặc điểm chính cho phần này như sau:

Cả hai dòng Thiền Pháp Vân và Kiến Sơ đều bắt nguồn từ Thiền tông Nam phương Trung Hoa. Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi ngộ và được truyền thừa pháp mạch từ đệ tam tổ Tăng Xán thuộc thời kỳ đầu của Thiền tông Trung Hoa; Tổ Vô Ngôn Thông ngộ và được truyền thừa pháp mạch từ tổ Bách Trượng Hoài Hải, thuộc thời kỳ “Ngựa tơ ăn cỏ” (Mã Tổ Đạo Nhất).

Cả hai dòng Thiền, đặc biệt là hai vị Tổ đầu tiên đều chú trọng việc truyền thừa Thiền mạch, thống hệ Thiền tông. Bởi cả hai đều là những vị khai tổ tại đất Việt. Và việc nói rõ thống mạch này cũng đầy đủ theo hai hình thức Truyền pháp của Thiền tông Ấn - Hoa. Nghĩa là có đủ phần văn Trường hàng và văn Kệ. Có điều những ngôn ngữ truyền pháp của cả hai Tổ sư đều khá dài. Truyền pháp của Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi cho Thiền sư Pháp Hiền thì không chỉ dài về ngôn ngữ, mà giữa ngôn ngữ văn xuôi và ngôn ngữ văn vần không tách bạch thành hai phần rõ ràng.

Trong khi 14 câu đầu thì theo hình thức 4 từ, đậm chất văn kệ: "Chư Phật Tâm ấn, Tất bất tương hiềm, Viên đồng thái hư, Vô khuyết vô dư, Vô khứ vô lai, Vô đắc vô thất, Phi nhất phi dị, Phi thường phi đoạn, Bản vô sinh xứ, Diệc vô diệt xứ, Diệc phi viễn ly, Phi bất viễn ly, Vị đối vọng duyên, Giả lập các nhĩ”; số câu tiếp theo thì ngôn ngữ không thống nhất về hình thức, dài nhất thì 11 từ, ngắn nhất thì 4 từ: “Sở dĩ tam thế chư Phật diệc dĩ như thị đắc, Lịch đại Tổ sư diệc dĩ như thị đắc, Ngã diệc dĩ như thị đắc, Nhữ diệc dĩ như thị đắc, Dĩ chí hữu tình vô tình, giai dĩ như thị đắc”. Thả ngô Tổ Xán công, Ấn ngô thử tâm thời, Vị ngô tốc nam hành giao tiếp, Bất nghi cửu trụ. Khoáng lịch vu tư, Kim dữ nhữ ngộ, Quả phù huyền ký. Nhữ thiện trì chi, Ngô khứ thời chí hỷ.

Tổ sư Vô Ngôn Thông dặn bảo đệ tử truyền pháp là Cảm Thành (? – 860) theo một hình thức rất thống nhất của thời kỳ Đăng sử Thiền tông chính thức được hình thành và chú trọng. Vì thế, ta thấy có sự xác nhận rõ ràng thống hệ Phật – Tổ - Thầy cụ thể, chứ không chung chung về Phật Tổ Thầy hay chúng sinh, rồi mới đến thầy trực tiếp như kiểu của tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thời mà Đăng sử Thiền tông Trung Hoa chưa được chính thức ra đời: Xưa đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, hóa duyên xong xuôi, Ngài vào Niết bàn. Chân tâm vi diệu như thế gọi là Chính pháp nhãn tạng, thật tướng vô tướng, tam muội pháp môn. Chính Ngài tự thân trao cho đệ tử là Tôn giả Đại Ca Diếp làm sơ tổ.

Đời đời truyền nhau, đến Đại sư Đạt Ma từ Ấn Độ sang, trải bao hiểm nguy để truyền dạy pháp này. Đến Lục Tổ Tào Khê, đắc pháp với Ngũ tổ. Khi Đạt Ma mới đến, vì người đời chưa biết tin, nên lấy sự truyền y để làm rõ việc đắc pháp. Nay đức tin đã chín muồi thì y bát là đầu mối của sự tranh chấp, phải dừng nơi ông, không nên truyền nữa. Từ đó, lấy tâm truyền tâm, không truyền y nữa. Bấy giờ Nam Nhạc Nhượng đầu tiên được tâm truyền, Nhượng trao cho Mã tổ Nhất, Nhất lại trao cho Bách Trượng Hải. Ta nhờ ở Bách Trượng mà được tâm ấn đó. Lâu nghe phương này, hâm mộ Đại thừa nhiều, nên ta xuôi Nam để tìm Thiện tri thức. Nay gặp được ngươi, ấy bởi duyên xưa. Hãy nghe ta nói kệ:

"Chư phương hạo hạo
Vọng tự huyên truyền,
Vị ngô thủy tổ,
Thân tự Tây thiên,
Truyền pháp nhãn tạng,
Viết vị chi Thiền,
Nhất hoa ngũ diệp"

Chủng tử miên miên... Tiềm phù mật ngữ, Thiên vạn hữu duyên. Hoặc vị tâm tông, Thanh tịnh bản nhiên. Tây thiên thử độ, Thử độ Tây thiên, Cổ kim nhật nguyệt, Cổ kim sơn xuyên. Xúc đồ thành trệ, Phật tổ thành oan. Sai chi hào ly, Thất chi bách thiên. Nhữ thiện quán sát, Mạc hiềm nhi tôn. Trực nhiêu vấn ngã, Ngã bản vô ngôn.

Có thể thấy, ngoài việc khẳng định Bản Tâm thanh tịnh – Phật tính sẵn có như Phật – Tổ Thiền tông Ấn – Hoa, các Tổ hai dòng Thiền tại đất Việt đều nương triết lý Phật tính bản hữu đó mà khẳng định đất Việt cũng là Tây Thiên, đất Việt cũng là đất Phật. Nhờ thế, cái hữu dụng cho việc khẳng định sự độc lập bản nhiên của các quốc gia, trong đó có đất Việt. Từ đó đưa ra một thông điệp rằng: Không ai không quốc gia nào có quyền hiếp đáp hay áp đặt cho quốc gia vùng miền khác, cần tôn trọng nhau trong tính Bình đẳng đó.

Quan trọng hơn, cả hai vị Tổ cũng khẳng định “Hữu duyên” với vùng đất Việt, hữu duyên với người đệ tử pháp khí mà mình đang truyền thừa. Từ đó tiếp tục khẳng định những người học Phật của đất Việt tương đồng với những Tổ sư của Ấn – Hoa, cũng xứng đáng được truyền thừa pháp mạch, được dự phần trong việc “Truyền đăng tục diệm”, vừa làm cho hạt giống Tâm tông thêm hoa thêm trái ở nhiều vùng đất, vừa hỗ trợ cho sự kết thông giữa Vương quyền – Thần quyền được tiếp tục thiết lập vững chãi.

Các Tổ sư người Việt tiếp tục hiện thực hóa những thông điệp của hai Tổ sư khai sáng. Cụ thể, ta thấy dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi, 5 Tổ sư: Định Không (730 – 808); Thông Thiền; La Quý (852- 936); Thiền Ông (902 – 979); Vạn Hạnh (? – 1025) đều dốc sức cho việc “Lý thị hưng vương, Tam Bảo thành công” (vua Lý lên ngôi, Tam Bảo vững thịnh). Các Tổ vừa làm ra rất nhiều bài kệ theo kiểu “Dự tri thời chí” – Thụ ký thể của thời Phật Thích Ca Mâu Ni trở đi... mà thuật ngữ nghiên cứu gia hay gọi là Sấm vỹ kệ: “Địa trình pháp khí, thập nhị đồng chung, Lý thị hưng vương, Tam Bảo thành công” [36, tr. 246; 254], vừa tạo ra những hình ảnh cụ thể, dặn dò bằng những lời nói cụ thể, để đảm bảo cho việc hiện thực hóa thông điệp Tổ khai sơn dạy: Khi sắp tịch, Định Không gọi đệ tử Thông Thiền dạy rằng: Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chứng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta mãn vậy.

Khi sắp tịch, sư dạy đệ tử Thiền Ông rằng: Xưa kia Cao Biền xây thành bên sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt con sông Điềm và những ao Phù Chẩn... đến 19 chỗ để trấn yểm nó. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại nữa, ở chùa Châu Minh, ta có trồng một cây bông gạo để trấn chỗ đứt, biết đời sau ắt có kẻ làm vua ra đời để phò dựng chính pháp của ta. Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép yểm giấu trong đó, chớ cho người thấy... Và cuối cùng, đến thời Tổ sư Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn đã chính thức lên ngôi, trở thành một vị quốc vương tu học và ủng hộ Phật pháp, thiết lập cõi Phật ngay nơi cõi Đại Cồ Việt.

Trong khi đó, dòng Vô Ngôn Thông, các Tổ tiếp tục khẳng định lịch sử truyền thừa của Thiền tông, lịch sử truyền thừa Phật giáo tại đất Việt này, đặc biệt chú trọng sự tương thông tương liên giữa Phật và Tổ. Cụ thể Quốc sư Thông Biện (? – 1134) đáp lời hỏi của Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái hậu: “Thường trụ thế gian, không sinh không diệt, được gọi là Phật. Hiểu rõ Tâm tông của Phật, hạnh giải hiệp nhau, được gọi là Tổ. Phật – Tổ là một, bởi bọn lạm xưng học giả tự dối nói có hơn thua... Đức Phật vì lòng từ bi, thị hiện ở đất Trúc, bởi vì đó được gọi là trung tâm trời đất, 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo, ở đời thuyết pháp 49 năm, mở bày các phương tiện, khiến người ngộ nhập đạo...

Khi sắp Niết bàn, sợ người sau mê chấp sinh tệ, nên bảo với Văn Thù: Suốt 49 năm, ta chưa từng nói một lời, sao bảo là có điều để nói. Rồi cầm một cành hoa đưa lên, mọi người đều ngơ ngác, chỉ có Tôn giả Đại Ca Diếp nở mặt mỉm cười. Phật biết Ca Diếp đã tỏ ngộ, liền đem chính pháp nhãn tạng trao cho, ấy là vị Tổ thứ nhất. Đó gọi là Tâm tông, truyền riêng ngoài giáo điển. Về sau Ma Đằng truyền kinh pháp vào đất Hán, Đạt Ma đem Tâm truyền sang đất Lương – Ngụy. Việc truyền kinh pháp đến Thiên Thai thì thịnh, gọi là Giáo tông. Được yếu chỉ của Đạt Ma thì đến Tào Khê mới thịnh, gọi là Thiền tông. Hai tông ấy, truyền đến nước Việt ta đã nhiều năm. Giáo thì lấy Mâu Bác, Khương Tăng Hội làm đầu; Thiền thì lấy phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm trước, dòng Vô Ngôn Thông làm sau. Đó là những vị Tổ của hai phái” [36, tr.204].

Ngoài ra, nhiều vị Tổ sư nói Kệ truyền pháp theo hình thức chung từ thời thịnh Thiền – Sau Lục Tổ Huệ Năng, nghĩa là có khi nói riêng cho một đệ tử nhập thất, có khi nói chung cho số đông đệ tử lúc sắp thị tịch. Điều này vừa khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của Thiền tông, vừa thể hiện “Gia phong” chung của Thiền tông. Thí dụ, Thiền sư Khuông Việt: “Khi sắp thị tịch, dạy riêng cho Đa Bảo rằng:

"Mộc trung nguyên hữu hỏa,
Hữu hỏa hỏa hoàn sinh.
Nhược vị mộc vô hỏa,
Toản toại hà do manh”...

Trong khi đó Thiền sư Từ Đạo Hạnh trước khi tịch, nói với đồ chúng: Túc nhân ta chưa hết, còn phải ra đời, tạm làm quốc vương. Đến khi thọ chung lại làm Thiên tử cõi Tam thập tam. Nếu thấy chân thân hư nát thì chính lúc ta nhập Niết bàn, không ở trong sinh diệt nữa... Nghe ta nói kệ:

"Thu lai bất báo nhạn đô quy,
Lãnh tiếu nhân gian cộng phát bi,
Vị báo môn nhân hưu luyến trước,
Cổ sư kỷ độ tác kim sư."

2.4.2. Giáo lý nền tảng – Pháp yếu – Pháp mạch

Phật tính bản hữu, bình đẳng, hành trình thông thường của Hành giả trong Thiền tông là: Kiến tính – Khởi tu – Đắc quả - Hoằng pháp. Vì thế “Kệ Truyền pháp” của các Tổ sư hai dòng Pháp Vân – Kiến Sơ đều thống nhất khẳng định. Phật tính ấy được gọi bằng nhiều tên, có khi dùng thuật ngữ thuộc khái niệm của nền Phật giáo Đại thừa – Thiền tông “Tâm ấn chư Phật”, hoặc “Diệu tính”; cũng có khi dùng “Dụ” trong các kinh điển để mô tả: “Mộc trung hỏa” (lửa trong cây), “Lô trung liên” (Sen trong lò), “Sơn trung ngọc” (ngọc trong núi đá). Phật tính này bình đẳng cho tất cả, ở Phật không tăng, ở chúng sinh không giảm. Phật tính ấy đủ cả Thể đại – Tướng đại – Dụng đại.

Song, Phật tính ấy cũng siêu việt ngôn ngữ tư duy vì thế không dễ để mô tả biểu tướng (ly tứ cú, tuyệt bách phi). Một khi đã biểu ra tướng biểu ra dụng thì thuộc phương tiện thiện xảo mà chư Phật chư Tổ sư vì lòng Đại bi mà khéo léo dẫn dụ để chúng sinh thấy rõ (Gia trung hữu bảo hưu tầm mích). Cuối cùng Phật – Tổ đều đưa ra những phương pháp để hạ thủ công phu, khiến chúng sinh chính thức tu tập, chuyển nhiễm thành tịnh, trở về với Phật tính của mình. Tiếp tục kế thừa phát huy hạnh nguyện lớn lao của Phật – Tổ mà mồi ngọn lửa trí tuệ từ ngọn đèn này sang ngọn đèn khác, thắp sáng lên tâm thức chúng sinh để tất cả sống với trọn vẹn trong hào quang rực rỡ trang nghiêm thanh tịnh ấy (Truyền đăng tục diệm).

Ta thấy Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Tổ Vô Ngôn Thông đều dùng thuật ngữ khái niệm để khẳng định:

"Tâm ấn chư Phật,
Tất không lừa dối.
Tròn đồng thái hư,
Không thiếu không dư..."

"Chư Phật ba đời cũng dùng như thế mà được,
Tổ sư nhiều đời cũng dùng như thế mà được,
Ta cũng dùng như thế mà được,
Ông cũng dùng như thế mà được,
Cho đến hữu tình vô tình cũng dùng như thế mà được..." (Bài của Tỳ Ni Đa Lưu Chi)

"Tất cả các pháp,
Đều từ tâm sinh,
Tâm không chỗ sinh,
Pháp không chỗ diệt..." (Bài của Vô Ngôn Thông)

Các Tổ Khuông Việt – Ngộ Ấn... dùng “Thí dụ” để khẳng định:

"Trong cây vốn có lửa,
Có lửa lửa mới sinh.
Nếu trong cây không lửa,
Cọ dùi lửa không sinh" (bài của Khuông Việt)...

"Diệu tính rỗng không chẳng thể bâu,
Rỗng không tâm ngộ có gì đâu.
Trên non ngọc đốt màu thường nhuận,
Sen nở trong lò ướt chửa khô." (bài của Ngộ Ấn)...

Hữu vi pháp luôn sinh diệt, hầu hết các Tổ sư hai dòng thường nói kệ truyền pháp lúc thị tịch cho tất cả đồ chúng, vì thế các Tổ đều khẳng định “Pháp hữu vi” là vô thường. Hữu vi này vừa là thân tứ đại của các vị, vừa là chỉ chung cho tất cả nhân sinh vũ trụ thuộc Thế gian pháp; Hữu vi cũng còn là Báo thân Phật – Tổ thị hiện ở đời, và là giáo pháp Phật – Tổ chỉ dạy cả một đời hoằng truyền, tiếp vật lợi sinh thuộc Phật pháp. Vì thế, người học Thiền nói riêng, người học Phật nói chung, thậm chí là tất cả đều nên liễu ngộ điều này để biết tận dụng giá trị của hữu vi pháp nhưng cũng biết buông xả không bám chấp dù là Ngã là Nhân là Chúng sinh là Thọ giả. Vì tất cả chỉ là giả tướng giả lập.

"Thân như bóng chớp có rồi không,
Cỏ cây xuân tươi thu héo hon,
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Thịnh suy đầu cỏ giọt sương phơi." (Bài của Vạn Hạnh)

"Thu sang chẳng báo nhạn về đây,
Cười nhạt người đời thương xót vay,
Nhắn bảo môn nhân thôi luyến ái,
Thầy xưa bao thuở chính thầy nay. "(bài của Từ Đạo Hạnh)

"Xưa nay không xứ sở,
Xứ sở ấy Chân tông.
Chân tông huyễn như vậy,
Huyễn hữu tức không không" (bài của Định Hương)

Đi bằng con đường của tự thân là pháp yếu nền tảng của Thiền

Phật – Tổ thị hiện ở đời, khéo léo tạo ra hằng hà sa số pháp môn, có khi nói đầy đủ về 5 thừa: Nhân thừa – Thiên thừa – Nhị thừa - Bồ tát thừa – Phật thừa; có khi nói thẳng về Phật thừa. Song, tất cả chúng sinh đều phải nương tự thân mình, tự căn cơ, tự phúc tuệ của mình mà hạ thủ công phu. Không còn cách nào khác. Vì thế không rập khuôn Phật – Tổ, không chấp dính Pháp Phật Lý Tổ.

Đặc biệt nhất, phải biết mình là ai, mình đang ở giai đoạn nào, mình cần gì, mình hướng đến đích gì. Vì tuy nói Phật tính bình đẳng bản hữu, nhưng Phật là Phật xuất triền, chúng sinh là Phật tại triền, cần hiểu rõ mình và Phật – Tổ, mình và những bậc giác ngộ không phải một không phải khác. Không phải khác vì đều có Phật tính, nhưng không phải một vì Phật Tổ đã vượt qua sinh tử luân hồi, đã tự tại trong lẽ sinh diệt, trong khi mình vẫn còn là chúng sinh, vẫn còn bị khổ đau trong vòng sinh tử luân hồi.

"Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt,
Được vô sinh hãy nói vô sinh.
Làm trai có chí xông trời thẳm,
Chớ hướng Như Lai chỗ đó hành." (bài của Quảng Nghiêm)

Bài của Thiền sư Cửu Chỉ dòng Vô Ngôn Thông là một bài tổng kết tất cả Giáo lý - Pháp yếu – Pháp mạch tiêu biểu của Thiền tông:

"Tất cả pháp môn,
Vốn từ tính ngươi;
Tất cả pháp tính,
Vốn từ tâm ngươi.
Tâm – pháp như một,
Vốn chẳng hai pháp.
Phiền não trói buộc,
Tất cả đều không;
Phải quấy tội phúc,
Tất cả đều huyễn,
Không đâu chẳng quả chẳng nhân.
Ở trong nghiệp không phân biệt báo,
Ở trong báo không phân biệt nghiệp.
Nếu có phân biệt đối với nghiệp thì không tự tại.
Tuy thấy tất cả pháp mà không chỗ thấy.
Tuy biết tất cả pháp mà không chỗ biết.
Biết tất cả pháp nhân duyên làm gốc.
Thấy tất cả pháp chính tâm làm tông.
Tuy nhiễm thực tế, hiểu rõ thế gian, đều như biến hóa.
Thấu rõ chúng sinh, chỉ là một pháp.
Không có hai pháp, không bỏ nghiệp cảnh,
Phương tiện thiện xảo, đối với Hữu vi, bày pháp Hữu vi,
Mà không phân biệt, Tướng của Vô vi.
Vì muốn dứt trừ,
Vọng niệm so đo,
Của ta ấy vậy" (bài của Cứu Chỉ)

Tiểu kết chương 2

Có thể thấy, Kệ truyền pháp là một loại hình đặc biệt trong Thiền tông. Từ khi Đăng sử được thiết lập, người học Thiền rất coi trọng Kệ Truyền pháp. Qua những bài kệ đó, Thiền tông biểu hiện cho môn đồ học nhân của tự tông nói riêng, của Phật giáo nói chung, rộng ra là nhân loại thấy rõ “Thiện xảo phương tiện” thù diệu của Thiền môn. Tuy lập cước trên “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”, nhưng Thiền môn không thiếu phương tiện hữu vi pháp, không thiếu những độc sáng kỳ đặc của mình để giúp môn đồ và chúng sinh nhận diện Phật tính, nhận diện pháp Phật, nhận diện pháp thế gian, và rồi chọn lựa cách sống, cách đi trong sinh tử luân hồi.

Những bài Kệ truyền pháp với đủ chủng loại kết cấu được Phật – Tổ tương truyền, vừa thể hiện rõ giáo lý phong phú của Phật giáo qua các thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy – Phật giáo Bộ phái – Phật giáo Đại thừa sơ trung hậu, vừa biểu tả được pháp yếu – pháp mạch thống nhất và xuyên suốt ngàn đời muôn nơi của Phật giáo và Thiền tông. Người học Thiền biết tận dụng tất cả giá trị của Ngũ minh học, của ngôn ngữ, của văn học, của nghệ thuật..., khiến cho sáu căn Mắt – Tai – Mũi – Lưỡi – Thân – Ý tiếp xúc được sáu Trần: Sắc – Thanh – Hương – Vị - Xúc - Pháp từ những bài kệ ấy, rồi sinh khởi Hiện lượng – Tỷ lượng về Thế gian pháp – Phật pháp – Thật pháp, cuối cùng xoay chuyển tâm tính, tuệ tri như thật về mọi điều, sống trong dòng sinh diệt, biết rõ duyên sinh pháp, biết rõ nghiệp báo và nguyện lực, biết rõ lẽ bất sinh bất diệt trong dòng sinh diệt, chọn cách thức phù hợp với tự thân để mà học đạo – tu đạo – chứng đạo và hoằng đạo.

Những bài Kệ truyền pháp của Thiền tông tuy có Thiền tông tại Ấn, Thiền tông tại Hoa, Thiền tông tại Việt... nhưng đều có tính thống nhất và xuyên suốt. Song, đã là thời kỳ khác nhau, đã là vùng miền khác nhau, sự dị biệt không thể không có. Khi đọc bài kệ đó thuộc thời kỳ tại Ấn thì chất Ấn hiện rõ, chất Hoa chất Việt cũng thế.

Tất cả trình hiện cho chúng ta thấy rõ Phật của tự tính; Phật của ba đời Quá khứ - Hiện tại – Tương lai; Phật với đủ Thể - Tướng – Dụng mầu nhiệm; cũng thấy rõ Tổ của Nguyên thủy – Bộ phái – Đại thừa – Tông phái, vừa khai mở một nền Triết lý với đủ chủng loại từ thấp đến cao, từ hiện thực đến trừu tượng, một nền giáo lý Tôn giáo với đủ hình thức biểu tướng: Người khai sáng – Các thế hệ kế thừa – Giáo lý cốt lõi – Thanh quy giới luật – Không gian hoằng pháp; vừa biểu tả được chất đặc trưng, đặc sắc của từng thời kỳ, từng quốc gia, từng cá nhân. Qua đó, tất cả giá trị mang tính tổng quát và chi tiết đều hiện hữu, đều bộc lộ, và đều vì một hạnh nguyện lớn lao của Phật Tổ Thiền sư.

Song, tất cả những nhận diện trên chỉ là phần thuộc nguồn gốc và giáo lý pháp yếu pháp mạch tổng quát. Sau đây sẽ đi vào cấu trúc, chủng loại chuyên biệt cho Kệ truyền pháp của đề tài thuộc Thiền phái Trúc Lâm Lâm Tế thời Lê Trung Hưng.

(hết chương 2, còn tiếp)

Tác giả: Vũ Bảo Tuân
Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Trần Nhân Tông

Nguồn Tạp chí Phật học: https://tapchinghiencuuphathoc.vn/ke-truyen-phap-cua-thien-phai-truc-lam-lam-te-thoi-le-trung-hung-p-2.html