Kết cục buồn của 'cha đẻ' bom nguyên tử Mỹ
Ngày 6/8 rồi tiếp theo là 9/8/1945, 2 quả bom nguyên tử được người Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki, dẫn đến sự đầu hàng của Phát xít Nhật, Thế chiến II kết thúc. Trước đó 2 tháng, Giáo sư Robert Oppenheimer, cha đẻ của loại vũ khí hủy diệt khủng khiếp này đã ăn mừng bằng cách chắp tay trước ngực, giống như võ sĩ giành đai vô địch trong tiếng reo hò nồng nhiệt của đám đông ở bãi thử Los Alamos khi quả bom đầu tiên thử nghiệm thành công…
1. Ngày 25/10/1945, hơn hai tháng sau ngày 2 quả bom nguyên tử ném xuống đất Nhật, giáo sư Robert Oppenheimer nhận lời mời gặp Tổng thống Mỹ Harry S. Truman tại Nhà Trắng. Tác giả Ray Monk trong cuốn “A Life Inside the Center” viết về cuộc đời giáo sư Oppenheimer, xuất bản năm 2012 cho biết: “Đây là lần đầu tiên Oppenheimer đặt chân vào căn phòng quyền lực nhất nước Mỹ nhưng không lâu trước đó, cảm giác vui sướng, tự hào của Oppenheimer vì đã góp phần quyết định kết thúc chiến tranh bỗng vỡ tan khi ông biết 2 quả bom do ông tạo ra, giết chết ngay lập tức 200.000 người, hơn 140.000 người khác chết trong những ngày kế tiếp vì chấn thương và vì bỏng...”.
Buổi gặp gỡ Tổng thống Truman diễn ra trong không khí trang trọng với sự có mặt của hầu hết các tướng lĩnh cao cấp thuộc Bộ Chiến tranh Mỹ, kể cả Bộ trưởng Henry Stimson. Tuy nhiên, khi nhìn thấy khuôn mặt thẫn thờ của Oppenheimer, ông Truman hỏi: “Có chuyện gì về sức khỏe không?” thì Oppenheimer đáp: “Thưa tổng thống, tôi thấy tay mình đã vấy máu…”. Trong cuốn “A Life Inside the Center”, Ray Monk viết: “Sững người vài giây, Tổng thống Truman lấy lại vẻ bình tĩnh. Ông nói với Oppenheimer: “Ông không nên mang cái gánh nặng ấy vào người. Tay tôi cũng vấy máu như ông vậy. Hãy để tôi lo về điều đó”.
Buổi gặp gỡ kéo dài khoảng nửa tiếng trong bầu không khí nặng nề. Khi Oppenheimer đã ra khỏi phòng, Tổng thống Truman quay sang tướng McAthur, Tư lệnh quân đội Mỹ ở mặt trận Thái Bình Dương: “Máu trên tay ông ta à? Chết tiệt! Ông ta có biết rằng số máu ấy chỉ bằng một nửa so với tay tôi không?”. Còn với Ngoại trưởng Dean Acheson, ông Truman gằn giọng: “Tôi không muốn gặp lại thằng đó (nguyên văn: Son of bitch - Thằng chó đẻ) trong văn phòng này nữa”.
Đó là lần duy nhất và cũng là lần cuối cùng Oppenheimer gặp Tổng thống Truman, khác hẳn với tâm trạng của ông hôm 16/7/1945, khi một quan sát viên tại Phòng thí nghiệm Los Alamos hét lên: “Nó đã nổ”. Đó chính là lúc một số ít nhân vật cao cấp trong chính quyền Mỹ nhìn thấy ánh sáng chói chang rồi tiếp theo là tiếng nổ trầm đục đi cùng với sóng xung kích và một đám khói hình nấm bốc lên, khiến cho tất cả dù đã ở trong căn hầm bê tông cốt thép dày 10m, cách xa tâm nổ 6km vẫn cảm thấy tức ngực. Tướng John Leslie R. Groves, người đứng cạnh Oppenheimer nhớ lại: “Khuôn mặt Giáo sư Oppenheimer tràn ngập niềm phấn khích. Ông ấy là người đầu tiên trên thế giới kiểm soát được sức mạnh hạt nhân. Quay sang tôi, ông ấy lắp bắp: “Anh John, chiến tranh sẽ chấm dứt, chấm dứt và mãi mãi chấm dứt”.
Vẫn theo tướng John, khi quay ra xe, thái độ phấn khích của Oppenheimer còn được thể hiện bằng dáng đi khệnh khạng: “Tôi không lấy đó làm phiền lòng. Tôi hiểu Oppenheimer. Ông ấy đã thắng. Nước Mỹ và đồng minh cùng các nạn nhân của chủ nghĩa quân phiệt, phát xít mang ơn ông ấy!”.
2. Ngược dòng thời gian, ngày 9/10/1941, không lâu sau khi nước Mỹ chính thức can dự vào Thế chiến II, Tổng thống Mỹ lúc này là Franklin Roosevelt đã phê chuẩn một chương trình khẩn cấp phát triển bom nguyên tử với tên gọi “Dự án Mahattan” và người đầu tiên được mời tham gia là Oppenheimer, biệt danh “Người điều phối Đứt gãy nhanh”. Cái biệt danh ấy ám chỉ đến sự thành công của Oppenheimer trong việc tạo ra phản ứng dây chuyền neutron - là nguyên lý cốt lõi của bom nguyên tử.
Nhận lời mời tham gia “Dự án Mahattan”, Oppenheimer quy tụ một số nhà vật lý châu Âu gồm nhà bác học thiên tài Albert Einstein, Robert Serber, Emil Konopinski, Felix Bloch, Hans Bethe và Edward Teller. Đến tháng 6/1942,Lục quân Mỹ thiết lập khu vực Công trình Manhattan để tiến hành chế tạo bom nguyên tử rồi 3 tháng sau, Oppenheimer được tướng John chỉ định là người lãnh đạo phòng thí nghiệm, một lựa chọn khiến nhiều người ngạc nhiên bởi lẽ Oppenheimer nổi tiếng là không gần gũi về mặt chính trị với nhánh quân đội bảo thủ. Trong cuốn “A Life Inside the Center”, Ray Monk viết: “Thoạt đầu, tướng John có phần e ngại vì Oppenheimer chưa từng đoạt giải Nobel nên ông ấy có thể không đủ uy tín để chỉ huy những nhà khoa học khác vì nhiều người trong số họ, nhất là những người đến từ châu Âu đều có giải Nobel...”.
Tuy nhiên khi bắt tay vào việc, tướng John thật sự ấn tượng với những kiến thức của Oppenheimer bởi lẽ Oppenheimer không chỉ xuất sắc trong lĩnh vực vật lý, mà còn giỏi về hóa học, luyện kim và vật liệu nổ. Theo tướng John: “Tôi nhìn thấy trong con người Oppenheimer có những cái mà người khác không có. Ông ấy thể hiện một tham vọng choáng ngợp, là thứ cần thiết để cung cấp động lực thúc đẩy dự án thành công”. Nhà bác học Einstein nhận xét: “Sự bổ nhiệm Oppenheimer thực sự là nước cờ thiên tài của tướng John mặc dù John không được… thiên tài cho lắm!”.
Nhằm bảo đảm an ninh và nhất là bí mật, Oppenheimer quyết định đặt phòng thí nghiệm tại một khu vực hẻo lánh ở bang New Mexico, nơi có trại chăn nuôi Los Alamos. Việc xây dựng cơ sở vật chất được công binh Mỹ tiến hành rất nhanh chóng và hoàn thành vào đầu năm 1943. Lúc ấy, Los Alamos chỉ có hơn 300 người nhưng 2 tháng trước khi quả bom nguyên tử hoàn thành hồi tháng 2/1945, con số này là 6.000 người.
Thoạt đầu, ý tưởng của Oppenheimer là chế tạo một khẩu súng bắn loại đạn Plutonium, gọi là “Thin man - Thằng gầy” nhưng những thí nghiệm sau đó khiến ông nhận ra rằng chỉ có thể làm ra súng với lượng Plutonium rất nhỏ. Nhà bác học Albert Einstein nói: “Tháng 7/1944, Oppenheimer đề xuất với tôi chuyển từ thiết kế dạng súng sang bom nổ kép mà vật liệu nổ là Uranium 235. Nó chỉ cần một khoảng cách di chuyển rất ngắn để có thể hội tụ lại thành khối lượng tới hạn”.
Ngày 28/2/1945, quả bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới ra đời với mật danh “Trinity”. Đến ngày 16/7/1945, Trinity được cho nổ tại bãi thử Los Alamos. Chuẩn tướng Thomas Farrelll, người có mặt trong hầm an toàn với Oppenheimer khi diễn ra vụ nổ nhớ lại: “Ngay trước lúc bom nổ, tôi thấy Oppenheimer nín hơi, khuôn mặt ông ấy cực kỳ căng thẳng vào những giây cuối cùng. Chỉ đến khi một quầng lửa bừng lên, các cơ mặt ông ấy mới giãn ra với đầy vẻ vui sướng…”.
3. Thế nhưng chỉ 2 tháng sau ngày người Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống đất Nhật, cuộc sống của Oppenheimer rẽ sang một hướng khác. Ông hút thuốc lá liên miên và thần kinh thì suy nhược trầm trọng. Sau khi gặp gỡ một số tướng lĩnh Mỹ trực tiếp cầm quân đánh nhau với người Nhật và được biết nếu Mỹ không ném bom nguyên tử, Đế quốc Nhật cũng sẽ phải đầu hàng. Việc ném 2 quả bom chỉ rút ngắn thời gian chấm dứt chiến tranh, tiết kiệm xương máu lính Mỹ nhưng ngược lại, người dân Nhật vô hình trung thành vật tế thần.
Ngày 17/8/1945, Oppenheimer từ chức Giám đốc Phòng thí nghiệm Los Alamos đồng thời gửi bản kiến nghị đến Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Henry Stimson, kêu gọi cấm sử dụng vũ khí hạt nhân trong tất cả các cuộc xung đột. Trong cuốn “A Life Inside the Center”, Ray Monk viết: “Khi đã thành công trong vụ nổ thử nghiệm, Oppenheimer tin rằng nó sẽ chỉ được dùng làm vũ khí răn đe nhưng lúc quả bom thứ nhất ném xuống Hiroshima, ông đã sửng sốt trước sự hủy diệt của nó. Lúc ấy, ông không hề muốn ném tiếp quả bom thứ hai nhưng mọi ý kiến của ông với những tướng lĩnh hàng đầu trong Bộ Chiến tranh đều bị gạt sang một bên…”.
Vẫn theo Ray Monk thì trong cuộc gặp Tổng thống Truman tại Nhà Trắng ngày 25/10/1945, Oppenheimer tin rằng ông có cơ hội để thuyết phục Truman từ bỏ chương trình chế tạo vũ khí nguyên tử trong lúc Truman lại hy vọng với uy tín của Oppenheimer, ông sẽ nhận được sự ủng hộ của Quốc hội thông qua Dự luật May-Johnson, cho phép Quân đội Mỹ kiểm soát vĩnh viễn năng lượng hạt nhân. Ray Monk viết: “Oppenheimer tỏ ra bối rối khi Tổng thống Truman đề nghị ông đoán xem người Nga sẽ mất bao lâu để có được quả bom nguyên tử của riêng họ?Lúc nghe Oppenheimer trả lời rằng “Thưa tổng thống, tôi không biết” thì Truman chỉ nói vỏn vẹn một câu: “Không bao giờ!”. Ngay lập tức, Oppenheimer siết chặt hai bàn tay của mình vào nhau: “Thưa tổng thống, tôi thấy tay mình đã vấy máu…”. Thư ký Nhà Trắng Sherwin cho biết khi nghe Oppenheimer nói thế, Truman đã rút chiếc khăn tay từ túi áo của mình rồi đưa cho Oppenheimer: “Ôi chà. Đây, anh có muốn lau sạch không?”.
Sau khi Oppenheimer từ chức Giám đốc Phòng thí nghiệm Los Alamos và bản kiến nghị gửi Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Henry Stimson về việc cấm sử dụng vũ khí hạt nhân không được hồi âm, ông gần như suy sụp. Tuy vậy, năm 1946 Tổng thống Truman vẫn vinh danh Oppenheimer với bằng khen và Huân chương công trạng, trong đó Bộ trưởng Stimson mô tả sự thành công của bom nguyên tử “phần lớn nhờ vào thiên tài của Oppenheimer cũng như nguồn cảm hứng và khả năng lãnh đạo mà ông đã truyền cho các đồng nghiệp của mình”.
Năm 1947, trước lời mời tha thiết của Ủy ban Năng lượng nguyên tử Mỹ (AEC), Oppenheimer nhận lời tham gia nhưng chỉ giữ vai trò cố vấn. Ở vị trí này, ông đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc phát triển bom khinh khí. Cũng trong thời gian ấy và kéo dài đến năm 1966, Oppenheimer đồng thời còn là giám đốc Viện Nghiên cứu cao cấp về giải phóng năng lượng hạt nhân thuộc Đại học Princeton. Tại đó, ông khuyến khích các sinh viên nghiên cứu vật lý lượng tử, phục vụ cho mục đích hòa bình
Ngày 29/8/1949, Liên Xô thử nghiệm thành công quả bom RDS-1 ở bãi thử Semipalatinsk, Kazakhstan và trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới sở hữu vũ khí hạt nhân. RDS-1 có sức công phá tương đương 22.000 tấn thuốc nổ TNT, mạnh hơn cả hai quả bom Mỹ thả xuống Nhật. Nghe được thông tin này, Oppenheimer chua chát: “Cuộc chạy đua vũ khí hủy diệt tương lai nhân loại đã bắt đầu”.
Năm 1953, ở giai đoạn đỉnh cao chống Cộng của chính quyền Mỹ, Oppenheimer bị buộc tội có cảm tình với Cộng sản và giấy phép an ninh đặc biệt của ông trong Ủy ban Năng lượng nguyên tử bị tước bỏ. Điều này đồng nghĩa với việc ông không còn là cố vấn. Mãi đến năm 1963, Tổng thống Kennedy mới khắc phục bằng cách vinh danh Oppenheimer với giải thưởng Enrico Fermi - là giải thưởng cao quý nhất mà nước Mỹ dành cho các khoa học gia.
Ngày 18/2/1967, Oppenheimer qua đời tại thành phố Princeton, bang New Jersey, Mỹ, vì bệnh ung thư vòm họng. Năm 1970, một hố thiên thạch trên mặt trăng được đặt tên ông rồi ngày 4/1/2000, một tiểu hành tinh do Nasa phát hiện cũng được gọi là Oppenheimer 67085 nhưng mãi đến tháng 12 năm 2022, Bộ Năng lượng Mỹ mới hủy bỏ quyết định thu hồi giấy chứng nhận an ninh của Oppenheimer đồng thời chính thức thừa nhận những cáo buộc với ông là không công bằng…
Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/ket-cuc-buon-cua-cha-de-bom-nguyen-tu-my-i702021/