Kết nối vùng kinh tế trọng điểm miền Trung còn rời rạc, kém hiệu quả

Mặc dù các tỉnh, thành phố đã tự nguyện tham gia ký kết thành lập bộ máy tổ chức vùng Duyên hải miền Trung, có Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung do Thủ tướng thành lập, đã vận hành và hoạt động tương đối hiệu quả nhưng chỉ sau một thời gian, các tổ chức, bộ máy này dường như ngày càng rời rạc, bộc lộ những khó khăn, hạn chế.

Tạo động lực tăng trưởng

Mục tiêu của Chính phủ là xây dựng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trở thành khu vực phát triển năng động với tốc độ nhanh và bền vững, là vùng động lực phát triển cho toàn vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, là cửa ngõ ra biển quan trọng của các tỉnh vùng Tây Nguyên, khu vực “tam giác” phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam và tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây; là vùng công nghiệp gắn với biển và các trung tâm dịch vụ hiện đại; đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; chủ quyền biển, đảo được bảo vệ; quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; môi trường sinh thái, môi trường sống được đảm bảo; giảm thiểu đến mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

 Người dân phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa kiểm tra quá trình phát triển của rong nho - sản phẩm mang lại giá trị kinh tế cao cho địa phương. Ảnh: LA DUY

Người dân phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa kiểm tra quá trình phát triển của rong nho - sản phẩm mang lại giá trị kinh tế cao cho địa phương. Ảnh: LA DUY

Để thực hiện các mục tiêu đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số quyết định, quy chế, chỉ thị nhằm tổ chức, vận hành và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, trong đó có vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Bản thân các tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và các địa phương thuộc vùng Duyên hải miền Trung cũng đã đồng thuận và tự nguyện ký kết thành lập bộ máy tổ chức vùng Duyên hải miền Trung. Tiếp theo đó, Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung cũng được thành lập tại Quyết định số 2059/QĐ-TTg ngày 24-11-2015 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Ban chỉ đạo, Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2015-2020. Các quyết định trên đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương và giữa các chính quyền địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đảm bảo tính thống nhất trong xây dựng và thực thi chính sách quốc gia.

Nhờ đó, trong những năm qua, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đã đạt được những thành tựu quan trọng về tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 2001-2019, tốc độ tăng GRDP bình quân toàn vùng luôn được duy trì ở mức tăng trưởng cao (10,25%/năm). Giai đoạn 2011-2019 có sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng đáng kể so với thời kỳ trước (8,14%), song vẫn cao hơn mức tăng trưởng trung bình chung của cả nước (6,2%/năm). Các địa phương nội vùng duy trì được mức tăng trưởng cao. Thành phố Đà Nẵng có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất vùng, bình quân 12,05%/năm. Tiếp đến là Quảng Nam với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 11,58%/năm. Quảng Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài là nhờ vào vai trò quan trọng của khu kinh tế mở Chu Lai, trong đó khu phức hợp ô tô Chu Lai Trường Hải đã góp phẩn phát triển ngành công nghiệp cơ khí ô tô Việt Nam, tạo ra một số sản phẩm công nghiệp có giá trị lớn, có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Quảng Ngãi đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong thời kỳ dài (11,19%/năm), nhờ vào đóng góp của Nhà máy lọc dầu Dung Quất từ năm 2009. Tỉnh Bình Định có tốc độ tăng trưởng khoảng 8,73%/năm.

Liên kết vùng kém hiệu lực, hiệu quả

Mặc dù vùng kinh tế trọng điểm miền Trung duy trì được mức tăng trưởng cao trong thời gian dài, tuy nhiên quy mô nền kinh tế vùng còn tương đối nhỏ và chiếm tỷ trọng khá thấp trong nền kinh tế Việt Nam. Năm 2001, quy mô GRDP toàn vùng chỉ chiếm khoảng 5% GDP cả nước; đến năm 2019 cũng chỉ chiếm 7,09%. Xuất phát điểm của kinh tế vùng kinh tế trọng điểm miền Trung còn thấp, đóng góp kinh tế của vùng trong nền kinh tế quốc gia chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng kinh tế động lực.

Nguyên nhân chính do vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chịu sự khắc nghiệt của thiên tai, lũ lụt, hạn hán; địa hình hẹp, trải dài, cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông đi lại còn khó khăn, nên việc liên kết phát triển rất hạn chế, vì vậy các tỉnh trong vùng chưa khai thác và phát huy tốt hiệu quả tiềm năng, lợi thế. Ngoài ra, các dự án trọng điểm về giao thông liên tỉnh, liên vùng như đường cao tốc Bắc-Nam, đường ven biển, các tuyến quốc lộ kết nối với Tây Nguyên, phát triển các sân bay quốc tế còn chậm triển khai, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của vùng so với các vùng kinh tế trọng điểm miền Trung phía Bắc và phía Nam.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá hoạt động liên kết vùng kinh tế trọng điểm miền Trung còn nhiều hạn chế. Đó là, các thỏa thuận liên kết trong vùng còn mang tính hình thức, hành chính, nặng về quyết tâm chính trị, chưa có sự phối hợp thực chất. Thời gian qua, hợp tác nội vùng, hợp tác song phương phát triển, nội dung ngày càng toàn diện hơn nhưng các văn bản hợp tác mới chỉ mang tính chất đồng thuận về nguyên tắc, còn việc triển khai cụ thể chưa được quan tâm đúng mức.

Mặt khác, liên kết trong xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện quy hoạch còn yếu và thiếu hiệu quả. Trên thực tế, đã có những quy định pháp lý mang tính bắt buộc liên kết trong một số nội dung như: Xây dựng và kiểm tra việc thực hiện chính sách, chiến lược phát triển, quy hoạch, kế hoạch.

Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh cho thấy, một mặt các địa phương đều rất ít chú ý tới ý kiến của các địa phương liền kề đối với bản quy hoạch của tỉnh mình, mặt khác các địa phương ít quan tâm đến bản quy hoạch của địa phương khác và cũng e ngại động chạm tới lợi ích của nhau nên các góp ý không mang tính thực chất, trừ khi có sự đụng chạm trực tiếp tới lợi ích của địa phương mình. Chính vì thế, quy hoạch các tỉnh trong vùng về bộ khung xây dựng gần giống nhau, dẫn đến việc thừa năng lực sản xuất, đầu tư dàn trải, trùng lắp tại các địa phương trong vùng. Việc phối hợp trong xây dựng quy hoạch không mang lại nhiều kết quả nên việc triển khai thực hiện quy hoạch lại càng khó có khả năng liên kết do ngay từ giai đoạn đầu đã không xuất hiện nhu cầu liên kết vùng.

Bên cạnh đó, kết nối về đầu tư còn rời rạc, chưa có cơ chế thống nhất, nhất là trong các khu kinh tế, khu công nghiệp. Phát triển kinh tế - xã hội của vùng vẫn chủ yếu do các địa phương tự làm, chưa có tính chất liên vùng để đẩy mạnh sự phát triển tương hỗ giữa các thành viên. Việc tiến hành kêu gọi đầu tư còn thiếu đồng bộ, dàn hàng ngang, chưa tận dụng được lợi thế riêng của từng địa phương.

Các địa phương đều muốn lấy nhân công giá rẻ, cảng biển, sân bay làm lợi thế, tạo sự cạnh tranh không cần thiết. Hoạt động hợp tác hay liên kết kinh tế diễn ra trong phạm vi hẹp, chủ yếu là giữa một số địa phương chứ chưa có những hoạt động liên kết trên diện rộng toàn vùng nhất là trong cáckhu kinh tế, khu công nghiệp và liên kết các khu kinh tế, khu công nghiệp với các địa phương, dẫn đến phân tán các nguồn lực…

Để tìm ra những giải pháp căn cơ, hữu hiệu nhằm giải quyết nút thắt phát triển của khu vực Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung, sớm đưa vùng này trở thành khu vực phát triển năng động với tốc độ nhanh và bền vững, là vùng động lực phát triển cho toàn vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung bộ như mục tiêu đã đề ra, ngày 1-7-2022, Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 phối hợp với Tỉnh ủy Quảng Nam sẽ tổ chức Tọa đàm Khoa học “Liên kết phát triển Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung trong bối cảnh mới”.

QUỲNH MINH

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/ket-noi-vung-kinh-te-trong-diem-mien-trung-con-roi-rac-kem-hieu-qua-698564