Khám phá bí ẩn của những 'mỹ nhân ngư' Ama
Được ví như nàng tiên cá ở những vùng biển Nhật Bản, những 'hải nữ' Ama từ bao đời nay vẫn miệt mài đi tìm ngọc trai, được coi là những người phụ nữ giữ gìn nét văn hóa tại xứ sở Mặt Trời mọc.
Mặc dù chỉ cách các siêu đô thị hiện đại như Osaka và Nagoya vài giờ đi tàu, Ise-Shima vẫn giữ nguyên được nét hoang sơ, mộc mạc đẹp đến nao lòng: một bán đảo với bờ rừng, làng chài và đảo nhỏ xanh ở vịnh Thái Bình Dương.
Mang vẻ đẹp yên bình hiếm có nên Ise-Shima thu hút hơn 6 triệu lượt khách du lịch hành hương đến thăm đền thờ Thần đạo Ise Jingu linh thiêng hàng năm. Còn những người yêu thiên nhiên đến đây để "vực dậy tinh thần" tại Vườn quốc gia Ise-Shima.
Đặc biệt hơn cả, Ise-Shima được xem như "thành trì vĩ đại" cuối cùng của khoảng 600 nữ thợ lặn. Họ được gọi chung với cái tên Ama - tiếng Nhật có nghĩa hải nữ hay người phụ nữ của biển.
Những người phụ nữ của biển cả
"Hải nữ” (海女) là danh từ phiếm chỉ những nữ thợ lặn ở vùng biển Đông Bắc Á. Lặn sâu dưới đáy biển để đánh bắt hải sản là công việc thường ngày của họ. Do đặc trưng thân thể nữ lưu giữ nhiệt tốt và thích hợp để bơi lội hơn nam nhi, nên tại các vùng biển, phụ nữ thường đảm nhận công việc này.
Ama trong tiếng Nhật có nghĩa là “Người phụ nữ của biển”. Truyền thuyết về các Ama được ghi lại từ những năm 750 TCN trong tập thơ ca cổ Manyoshu.
Từ xa xưa, phụ nữ Nhật sống rải rác trên các bán đảo làm nghề lặn mò bào ngư, sò, ngọc trai, rong biển kiếm sống. Họ sử dụng kỹ thuật đặc biệt, lặn tới độ sâu 30 m và nín thở được trong vòng hai phút.
Trong gần hai ngàn năm, những người phụ nữ sinh sống ở làng chài ven biển ra đại dương để đánh bắt hàu và bào ngư, ốc biển để sản xuất ngọc trai làm kế sinh nhai hàng ngày.
Họ được gọi là Ama, và cho đến những năm thập niên 90 tại Nhật Bản vẫn còn những phụ nữ làm nghề ngày để mưu sinh hàng ngày, họ lặn vào biển Thái Bình Dương với công cụ chỉ là mặt nạ và chân vịt.
Sau đó các Ama sẽ nổi lên, mở miệng nhẹ nhàng và thở ra chậm rãi, phát ra âm thanh như tiếng sáo nhỏ. Họ làm việc 4 tiếng một ngày theo nhiều ca nhỏ.
Người Nhật tin rằng phụ nữ phù hợp với công việc lặn hơn nam giới bởi có lớp mỡ dày trên cơ thể. Chính đặc điểm này giúp họ ở dưới nước lâu hơn và bắt hải sản bằng tay hiệu quả hơn.
Lao mình vào những vùng nước tối, lướt qua những rặng san hô và rừng tảo bẹ, các Ama có thể nín thở khá lâu. Họ mặc bộ đồ lặn, thường là trang phục màu trắng để bảo vệ mình khỏi cái lạnh và - người ta tin rằng - chúng còn nhằm xua đuổi cá mập đói.
Biểu tượng Seiman có ý nghĩa là người phụ nữ đã thực hiện chuyến lặn biển an toàn. Trên chiếc mũ còn có hình ảnh chín vạch thẳng vẽ đan xen gọi là Doman. Đó là biểu tượng cho chiếc lưới đánh cá.
Doman là bùa hộ mệnh để những người phụ nữ xua đuổi ma quỷ và mối đe dọa dưới biển sâu, ví dụ như cá mập.
Mang theo thùng gỗ nặng 5kg, Ama lặn xuống độ sâu 10m để tìm kiếm và thu hoạch bào ngư, nhím biển và các loài nhuyễn thể khác nhờ kinh nghiệm, trực giác trong khi phải len lỏi qua rong biển.
Họ phải thực hiện chuỗi động tác thành thục và nhịp nhàng vì chỉ có thể nín thở trong khoảng 50 giây. Công việc này đòi hỏi rất nhiều về năng lực thể chất và sức mạnh ý chí.
Vì tính chất công việc, những "người phụ nữ của đại dương" có tính cách rất mạnh mẽ và được kính trọng hơn nam giới.
"Các bậc tiền bối đã dạy tôi về ý thức trách nhiệm và sự chu đáo với người khác. Khi nghĩ về những điều này, tôi rất vui vì đã trở thành một Ama", Mitsuhashi Mayumi, người trở thành Ama từ năm 30 tuổi, cho biết.
Nét văn hóa độc đáo dần phai nhạt
Hiện vẫn còn nhiều người theo nghề lặn biển này nhằm duy trì một truyền thống đã có từ lâu đời. Tuy nhiên, con số đã giảm mạnh, từ 8.000 người sau Thế chiến II xuống còn 2.000 người vào thời điểm hiện tại.
Shuzo Kogure, chuyên gia về Ama, nghiên cứu viên thuộc Đại học Khoa học Hàng hải và Công nghệ Tokyo cho hay lịch sử nghề Ama ở Nhật có từ hàng ngàn năm trước.
Những người phụ nữ ở các vùng quê xa xôi, không có công việc ổn định, nên họ chọn làm Ama để nuôi sống gia đình.
Họ thường học kiến thức lặn cơ bản từ lúc nhỏ tuổi. Và rồi, các kỹ năng, kinh nghiệm cứ được truyền lại từ đời bà sang đời mẹ, đến cả đời cháu gái. Tuy nhiên, ngày nay, thế hệ trẻ đang dần rời đi để theo đuổi sự nghiệp ở các thành phố lớn.
Cách duy nhất để bảo tồn truyền thống, họ phải tìm cách tăng thu nhập cho các Ama. Một số người lưng đã còng đi theo tuổi tác, cho biết công việc này lương thấp, nhiều nguy hiểm.
Nếu công việc không suôn sẻ, các Ama chỉ kiếm được khoảng 2.000 yen (khoảng 414.000 đồng)/ngày, con số quá thấp cho những rủi ro đến tính mạng.
Bên cạnh đó, sự suy giảm về số lượng của loại rong biển có tên Arame, nguồn thức ăn chính của bào ngư cũng khiến sản lượng thu hoạch của các Ama bị giảm đi.
Các quy định của chính phủ nhằm bảo vệ đa dạng sinh học môi trường biển cũng là một trong các yếu tố tác động đến thu nhập của Ama. Chưa hết, họ cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hoạt động đánh bắt hải sản của tàu thuyền.
Ngày nay, các Ama không chỉ lặn biển, họ còn mở dịch vụ đón du khách tại những căn lều truyền thống của mình. Tại đây, họ phục vụ các món hải sản vừa lấy lên từ lòng biển cả, tươi ngon đến bất ngờ.
Những bức ảnh dưới đây hầu hết được chụp vào khoảng năm 1950 ở vùng biển Chiba của Nhật Bản.
Trong một cuộc nói chuyện về nhiếp ảnh, một người anh đã giới thiệu cho mình xem và mình cảm thấy rất hào hứng để chia sẻ bộ ảnh này với anh em, trên nền tảng nhiếp ảnh tư liệu với giá trị rất đáng trân trọng.
Nguồn Đại Đoàn Kết: http://daidoanket.vn/kham-pha-bi-an-cua-nhung-my-nhan-ngu-ama-5686474.html