Khám phá về họ cá chìa vôi, có những loài 'độc dị' nhất thế giới

Họ Cá chìa vôi (Syngnathiformes) gồm các loài cá ngựa cùng nhiều loài họ hàng vô cùng kỳ quái, xứng đáng được coi là những 'kiệt tác' của đấng tạo hóa.

Cá múa sọc nâu (Aeoliscus strigatus) dài 15cm, phân bố ở vùng biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Loài cá này nguy trang bằng cách chúc đầu xuống giữa những chiếc gai của cầu gai và cũng bơi với tư thế đó khi cần di chuyển.

Cá múa sọc nâu (Aeoliscus strigatus) dài 15cm, phân bố ở vùng biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Loài cá này nguy trang bằng cách chúc đầu xuống giữa những chiếc gai của cầu gai và cũng bơi với tư thế đó khi cần di chuyển.

Cá ngựa Knysna (Hippocampus capensis) dài 12cm, là loài cá ngựa đặc hữu của vịnh Plettenberg và một số sông ngòi, đầm phá ở Nam Phi. Loài cá ngựa sống trong nước lợ, có khả năng thay đổi màu sắc tùy theo môi trường này đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cao.

Cá ngựa Knysna (Hippocampus capensis) dài 12cm, là loài cá ngựa đặc hữu của vịnh Plettenberg và một số sông ngòi, đầm phá ở Nam Phi. Loài cá ngựa sống trong nước lợ, có khả năng thay đổi màu sắc tùy theo môi trường này đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cao.

Cá ngựa đen (Hippocampus kuda) dài 30cm, sinh sống ở vùng nước nông ven biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Cá ngựa đen (Hippocampus kuda) dài 30cm, sinh sống ở vùng nước nông ven biển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Cá ngựa lùn (Hippocampus zosterae) dài 4cm, được ghi nhận tại miển Tây Đại Tây Dương và vùng Carribbean. Đây là loài cá di chuyển chậm nhất thế giới với tốc độ cao nhất khoảng 152 cm/h.

Cá ngựa lùn (Hippocampus zosterae) dài 4cm, được ghi nhận tại miển Tây Đại Tây Dương và vùng Carribbean. Đây là loài cá di chuyển chậm nhất thế giới với tốc độ cao nhất khoảng 152 cm/h.

Cá ngựa Shiho (Hippocampus sindonis) dài 8cm, là loài đặc hữu vùng ven bờ Thái Bình Dương ở miền Nam đảo Honsu của Nhật Bản. Chúng còn được gọi là cá ngựa sơn (painted seahorse) do màu sắc sặc sỡ như được sơn.

Cá ngựa Shiho (Hippocampus sindonis) dài 8cm, là loài đặc hữu vùng ven bờ Thái Bình Dương ở miền Nam đảo Honsu của Nhật Bản. Chúng còn được gọi là cá ngựa sơn (painted seahorse) do màu sắc sặc sỡ như được sơn.

Cá ngựa gai (Hippocampus histrix) dài 15 - 17cm, là loài cá ngựa bản địa Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Thân loài cá ngựa này có những hàng gai kéo dài liên tục.

Cá ngựa gai (Hippocampus histrix) dài 15 - 17cm, là loài cá ngựa bản địa Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Thân loài cá ngựa này có những hàng gai kéo dài liên tục.

Cá ngựa bụng lớn (Hippocampus abdominalis) dài 35cm, được tìm thấy ở vùng biển Đông Nam Australia và New Zealand. Chúng có bụng phình to bất thường so với các loài cá ngựa khác.

Cá ngựa bụng lớn (Hippocampus abdominalis) dài 35cm, được tìm thấy ở vùng biển Đông Nam Australia và New Zealand. Chúng có bụng phình to bất thường so với các loài cá ngựa khác.

Cá ngựa lùn Pontohi (Hippocampus pontohi) dài 1,7cm, được ghi nhận ở vùng biển phía Đông Indonesia và Papua New Guinea. Là một trong những loài cá ngựa nhỏ nhất thế giới, chúng có màu sắc giống loại tảo mà mình bám vào.

Cá ngựa lùn Pontohi (Hippocampus pontohi) dài 1,7cm, được ghi nhận ở vùng biển phía Đông Indonesia và Papua New Guinea. Là một trong những loài cá ngựa nhỏ nhất thế giới, chúng có màu sắc giống loại tảo mà mình bám vào.

Cá hải long cỏ (Phyllopteryx taeniolatus) dài 46cm, thường gặp ở bờ biển phía Nam của Australia. Loài cá có hình thù kỳ dị này thường ẩn mình giữa đám rong biển trên các rạn đá, ngụy trang bằng các bộ phận giống như lá trên cơ thể.

Cá hải long cỏ (Phyllopteryx taeniolatus) dài 46cm, thường gặp ở bờ biển phía Nam của Australia. Loài cá có hình thù kỳ dị này thường ẩn mình giữa đám rong biển trên các rạn đá, ngụy trang bằng các bộ phận giống như lá trên cơ thể.

Cá hải long lá (Phycodurus eques) dài 24cm, được ghi nhận ở bờ biển phía Nam Australia. Thân hình giống những chiếc lá tảo chúng ngụy trang trước kẻ thủ cùng như con mồi là các loài không xương sống nhỏ. Loài này có thể bất động một chỗ suốt 68 giờ.

Cá hải long lá (Phycodurus eques) dài 24cm, được ghi nhận ở bờ biển phía Nam Australia. Thân hình giống những chiếc lá tảo chúng ngụy trang trước kẻ thủ cùng như con mồi là các loài không xương sống nhỏ. Loài này có thể bất động một chỗ suốt 68 giờ.

Cá hải long Lembeh (Kyonemichthys rumengani) dài 2,6cm, có nguồn gốc từ vùng biển Thái Bình Dương xung quanh Indonesia. Chúng có hình dáng ngụy trang giống mảnh vụn thực vật trôi nổi dưới đáy biển.

Cá hải long Lembeh (Kyonemichthys rumengani) dài 2,6cm, có nguồn gốc từ vùng biển Thái Bình Dương xung quanh Indonesia. Chúng có hình dáng ngụy trang giống mảnh vụn thực vật trôi nổi dưới đáy biển.

Cá chìa vôi khoang vằn (Doryrhamphus dactyliophorus) dài 18cm, phổ biến trên khắp các vùng biển nhiệt đới của Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Chúng ẩn mình trong các rạn san hô và các tảng đá ở rạn san hô, cá chìa vôi khoang vằn có cơ thể thuôn dài điển hình của các loài cá chìa vôi.

Cá chìa vôi khoang vằn (Doryrhamphus dactyliophorus) dài 18cm, phổ biến trên khắp các vùng biển nhiệt đới của Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Chúng ẩn mình trong các rạn san hô và các tảng đá ở rạn san hô, cá chìa vôi khoang vằn có cơ thể thuôn dài điển hình của các loài cá chìa vôi.

Cá chìa vôi Schultz (Corythoichthys schultzi) dài 16cm, khá phổ biến ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Khi ẩn mình ở rạn san hô, màu sắc cơ thể loài cá này làm rối mắt kẻ thù tiềm tàng cũng như con mồi.

Cá chìa vôi Schultz (Corythoichthys schultzi) dài 16cm, khá phổ biến ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Khi ẩn mình ở rạn san hô, màu sắc cơ thể loài cá này làm rối mắt kẻ thù tiềm tàng cũng như con mồi.

Cá kèn Trung Hoa (Aulostomus chinensis) dài 80cm, được tìm thấy ở các vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Cá kèn Trung Hoa (Aulostomus chinensis) dài 80cm, được tìm thấy ở các vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Cá dao cạo (Solenostomus paradoxus) dài 12cm, phân bố ở Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Hình thù kỳ dị cùng màu sắc có thể thay đổi theo môi trường khiến chúng rất khó bị nhận dạng bởi các loài động vật khác.

Cá dao cạo (Solenostomus paradoxus) dài 12cm, phân bố ở Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Hình thù kỳ dị cùng màu sắc có thể thay đổi theo môi trường khiến chúng rất khó bị nhận dạng bởi các loài động vật khác.

Cá dao cạo mập (Solenostomus cyanopterus) dài 16cm, phấn bố ở Biển Đỏ và vùng nhiệt đới Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Có hình dạng giống những mảnh rong tảo, loài cá này ẩn nấp giữa đám rong biển và cỏ biển khi tìm mồi là động vật không xương sống nhỏ.

Cá dao cạo mập (Solenostomus cyanopterus) dài 16cm, phấn bố ở Biển Đỏ và vùng nhiệt đới Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Có hình dạng giống những mảnh rong tảo, loài cá này ẩn nấp giữa đám rong biển và cỏ biển khi tìm mồi là động vật không xương sống nhỏ.

P.V (Tỏng hợp)

Nguồn ANTĐ: https://anninhthudo.vn/kham-pha-ve-ho-ca-chia-voi-co-nhung-loai-doc-di-nhat-the-gioi-post598810.antd