Khi biển xanh gọi tên tôi

Biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa không chỉ là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, mà còn là máu thịt, là hơi thở, là niềm tự hào của mỗi người con đất Việt.

Chị Nguyễn Thị Thúy cùng con gái.

Chị Nguyễn Thị Thúy cùng con gái.

Biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa không chỉ là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, mà còn là máu thịt, là hơi thở, là niềm tự hào của mỗi người con đất Việt. Dù tôi sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn - một tỉnh nghèo thuộc vùng trung du miền núi phía Bắc, nơi núi rừng bạt ngàn và đồng bào dân tộc thiểu số quần tụ đông đúc, nhưng trong huyết quản tôi vẫn cuộn chảy tinh thần của người con đất cảng. Cha mẹ tôi, những người con quê gốc Tiên Lãng - Hải Phòng, đã nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, rời quê hương để tham gia khai hoang miền núi theo chủ trương “Đồng bào miền xuôi tham gia khai hoang miền núi.” Họ mang theo cả tình yêu biển cả để ngược lên phố núi hoang sơ, để rồi dù tôi ít có cơ hội tận mắt ngắm nhìn đại dương mênh mông, trái tim tôi vẫn luôn hướng về biển xanh rộng lớn - nơi sóng vỗ không ngừng và hun đúc khí chất mạnh mẽ của người dân miền duyên hải.

Xa quê hương suốt chín năm, sống nơi đất khách Israel, tôi càng thấm thía hơn nỗi nhớ nhung biển cả. Đối với tôi biển là một miền đất hứa nơi những con sóng đang ngày đêm vỗ vào bờ, như lời ru ngàn đời của mẹ thiên nhiên dành cho đất nước Việt Nam yêu dấu. Mỗi lần nhắm mắt, tôi như thấy lại hình ảnh bờ cát trắng trải dài, những con thuyền rẽ sóng vươn khơi, và cả những người lính kiên trung đang canh giữ chủ quyền nơi đầu sóng ngọn gió. Biển không chỉ là cội nguồn của sự sống từ hàng vạn thiên niên kỷ, mà còn là chứng nhân của lịch sử. Nhắc đến Hoàng Sa, Trường Sa, tôi nhớ về những trang sử hào hùng của cha ông, từ những đoàn hùng binh Hoàng Sa thời chúa Nguyễn, những người đã can trường ra đi, giong buồm vượt đại dương để xác lập chủ quyền, cho đến những người lính đảo kiên trung trong cuộc chiến giữ biển, những người đã ngã xuống để bảo vệ từng tấc đất, từng con sóng của quê hương.

Ký ức về trận chiến Gạc Ma năm 1988 vẫn còn đó, như một bản hùng ca bi tráng khắc sâu vào lòng dân tộc. Tôi hình dung ra những người lính Việt Nam, tay không vũ khí, vẫn kiên cường giữ vững lá cờ đỏ sao vàng giữa biển cả mênh mông, giữa tiếng gầm thét của bão tố và súng đạn quân thù. Họ ngã xuống, nhưng linh hồn họ hòa vào biển, vào từng con sóng, trở thành bất tử.

Tôi nhớ mãi chuyến đi năm ấy, cách đây đã mười lăm năm, khi tôi đặt chân đến miền Trung đầy nắng gió, nơi có những con người suốt đời gắn bó với biển khơi như một lẽ sống mảnh đất ấy không chỉ khắc nghiệt với gió Lào bỏng rát mà hàng năm phải đối mặt với hàng chục cơn bão dữ quật ngã cuốn trôi cả xóm làng nhưng không bao giờ quật ngã được ý chí kiên cường của người dân sinh ra từ sóng nước và tinh thần yêu nước đùm bọc giống nòi suốt ngàn đời nay của người dân Việt Nam mỗi khi cơn giông ập đến.

Ở Quảng Nam, tôi gặp chú Sáu - một ngư dân kiên cường đã gần sáu mươi tuổi làn da chú rám nắng sạm màu gió biển, khuôn mặt đã khắc lên màu thời gian nhưng ánh mắt luôn rực sáng. Chú kể về những ngày tháng bám biển, khi từng đợt sóng dữ, từng cơn bão lớn cũng không làm chùn bước chú. Giọng chú trầm ấm và đầy kiên định “Đi biển không chỉ để kiếm sống, mà còn để giữ biển cho con cháu mai sau”, chú nói, ánh mắt đầy tự hào. Chỉ một câu nói đơn giản mà chất chứa bao nhiêu tâm huyết của người đi biển. Chú kể về những ngày tháng lênh đênh giữa trùng khơi, đối mặt với từng đợt sóng dữ cao ngang ngọn dừa, có những hôm biển gầm gào như muốn nuốt chửng cả con tàu bé nhỏ. Nhưng dù bão tố có hung dữ thế nào, chú và anh em trên tàu vẫn kiên cường bám biển. Bởi với họ, biển không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là máu thịt, là linh hồn của quê hương.

Chú Sáu bảo rằng, có những đêm, cả tàu phải tắt đèn, thả trôi theo dòng nước vì sợ gặp tàu lạ rình rập. Nhưng dù có nguy hiểm đến đâu, chú chưa bao giờ nghĩ đến chuyện từ bỏ. “Nếu mình bỏ biển, ai sẽ giữ biển đây?” - chú nói, giọng nghẹn lại, rồi lại cười xòa, như thể những hiểm nguy ấy chỉ là chuyện nhỏ. Tôi lặng người trước câu chuyện của chú Sáu. Đằng sau những con tàu rẽ sóng ra khơi không chỉ là những mẻ cá đầy khoang, mà còn là cả ý chí, tinh thần quật cường của dân tộc. Những người như chú Sáu không chỉ là ngư dân, mà còn là những cột mốc sống, khẳng định chủ quyền Tổ quốc giữa muôn trùng sóng nước. Và tôi hiểu rằng, chính những con người thầm lặng như chú, với đôi tay chai sạn và trái tim kiên định, đã góp phần giữ vững biển trời quê hương.

Ngày rời Việt Nam, tôi mang theo nỗi nhớ quê hương, nhớ những cánh đồng xanh mướt, những dãy núi trập trùng miền sơn cước, và hơn hết, nhớ về biển cả bao la. Ở nơi đất khách, khi đứng giữa sa mạc khô cằn, tôi khát khao được trở về, được nghe tiếng sóng vỗ, được chạm tay vào từng hạt cát mịn của quê nhà. Mỗi lần nhắm mắt, tôi lại thấy hình ảnh biển đảo quê hương, thấy lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió, thấy những con tàu ngư dân vẫn ngày đêm bám biển, thấy những người lính đảo kiên cường vẫn vững vàng trước phong ba bão táp. Nếu ai đó hỏi tôi điều mong mỏi nhất khi trở về Việt Nam, tôi sẽ không chút do dự mà trả lời: Tôi muốn được đặt chân lên Trường Sa. Tôi khao khát một ngày được đứng trên hòn đảo thiêng liêng ấy, nơi giữa trùng khơi vẫn hiên ngang một phần máu thịt của Tổ quốc. Tôi sẽ dang rộng vòng tay đón lấy những cơn gió mặn mòi từ đại dương, hít thật sâu để cảm nhận hơi thở của biển cả quê hương. Tôi sẽ đặt tay lên từng tảng san hô, chạm vào từng viên đá cứng cỏi đã chứng kiến biết bao thăng trầm của dân tộc. Tôi hình dung mình sẽ cùng những người lính đảo trò chuyện dưới bầu trời đầy sao, lắng nghe họ kể về những ngày tháng kiên cường bám trụ nơi đầu sóng ngọn gió. Tôi sẽ được nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng tung bay kiêu hãnh trong nắng gió Trường Sa, nơi mà mỗi ngọn sóng đều vang lên Quốc ca tự hào về chủ quyền thiêng liêng. Tôi muốn được lặng yên bên bãi cát, lắng nghe tiếng sóng vỗ như những lời kể về quá khứ – về những con tàu đã không trở lại, về những người lính trẻ đã gửi lại tuổi thanh xuân nơi biển cả, về những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trên đảo, ngày ngày dõi mắt trông cha ngoài xa khơi. Tôi tin rằng, khi đứng giữa biển trời Trường Sa, tôi sẽ cảm nhận rõ hơn bao giờ hết tình yêu quê hương mãnh liệt đang chảy trong huyết quản. Và tôi cũng tin rằng, dù thời gian có trôi, dù thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, tình yêu và lòng tự hào về biển đảo quê hương sẽ mãi vẹn nguyên, như những con sóng ngoài khơi chưa bao giờ ngừng vỗ vào bờ.

Và rồi, dù có đi xa đến đâu, tôi vẫn tin vào một ngày trở về. Khi ấy, tôi sẽ bước lên con tàu, xuôi về những vùng biển thân yêu, để chạm tay vào từng con sóng, để thấy lòng mình hòa cùng hơi thở của biển, đặt chân mình lên những hòn đảo ngoài trùng khơi để nghe chính Tổ quốc gọi tên mình giữa muôn trùng đại dương. Hoàng Sa - Trường Sa không chỉ là lãnh thổ, mà còn là hồn cốt của dân tộc. Từng con sóng vỗ là từng nhịp đập của trái tim Việt Nam, từng cơn gió biển là lời nhắn nhủ của cha ông từ ngàn đời. Dù ở nơi đâu, dù xa quê hương bao nhiêu năm đi nữa, tôi tin rằng mỗi người con đất Việt vẫn luôn mang trong tim tình yêu với biển đảo quê hương, vẫn luôn khắc ghi trách nhiệm thiêng liêng: gìn giữ và bảo vệ từng tấc đất, từng con sóng, từng bãi đá ngoài khơi xa. Bởi lẽ, biển không chỉ là biển - biển là máu thịt, là linh hồn, là Tổ quốc./.

Nguyễn Thị Thúy (TTXVN/Báo Tin tức và Dân tộc)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/nguoi-viet-4-phuong/khi-bien-xanh-goi-ten-toi-20250608180149610.htm