Khiêu vũ ở nước ta từng có số phận nổi trôi thế nào?
Nguyễn Trương Quý từ lâu đã xác lập mình là nhà văn của Hà Nội, người say mê ghi lại những trầm tích quá vãng cả trong đời sống vật chất lẫn thế giới tinh thần. Trong cuốn sách này, tác giả cho thấy những mảnh ghép nhỏ bé, bình dị của Hà Nội tạo nên bản sắc, căn tính đất kinh kỳ.Khiêu vũ từng bị coi là ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục, bị cấm. Có những giai đoạn, nhảy đầm phát triển ở phòng trà, hoặc khiêu vũ tập thể 'đời sống mới' ở vườn hoa.
Năm 1949 thị trưởng Hà Nội - Phan Xuân Đài - đã ra lệnh cấm người Việt Nam khiêu vũ trong “tình thế quốc gia chưa phải lúc ăn tiêu hoặc chơi bời xa xỉ” (Tia Sáng, 4/6/1949), tiệm nhảy nào để người Việt Nam vào khiêu vũ sẽ bị đóng cửa. Tuy nhiên các bài hát sáng tác đầu những năm 1950 lại chủ yếu theo các điệu nhảy.
Điều này cho thấy lệnh cấm cũng chưa triệt được tận gốc, bởi lẽ các bài ca miệt mài xưng tụng hành động tình tứ “Dắt tay nhau về chốn Bồng Lai” (Đi với tôi đến chốn trời xa - Canh Thân).
Người ta lại thấy quốc vương Bảo Đại không phải đối tượng của những lệnh cấm ấy, vì theo nhiều truyền tụng, ông đã quen vũ nữ Lý Lệ Hà ở trên sàn nhảy Hà Nội, rồi thời chiến tranh ông ta cũng tiếp tục những bước nhảy lưu lạc ở đất Hong Kong.
Giống như số phận quân vương, khiêu vũ cũng khóc cười nổi trôi.
Sau khi Hà Nội được tiếp quản năm 1954, qua một giai đoạn rầm rộ cũ mới hữu hảo ngắn ngủi với những phòng trà và khiêu vũ tập thể “đời sống mới” ở vườn hoa, khiêu vũ lùi vào bóng tối của thời chiến tranh.
Ở miền Nam, “Đệ nhất phu nhân” Trần Lệ Xuân đã ra lệnh cấm khiêu vũ nhằm hưởng ứng đạo luật về Bảo vệ Luân lý vào tháng 8/1962. Tuy nhiên, các vấn nạn tổn hại thuần phong mỹ tục nếu xảy ra thì chẳng bởi riêng gì khiêu vũ.
Bất cứ thứ gì có sự tham gia của đàn ông đàn bà, hễ hai bên cầm tay ôm ấp là sinh chuyện. Sự phân vai chủ động của người đàn ông chính là vấn đề khi các người đẹp bạn nhảy bị lẫn lộn (vô tình hay cố ý) với bạn tình.
Sau những khoảng thời gian “đóng-mở”, khi nước nhà đã thống nhất, Bộ Văn hóa cũng có một chỉ thị số 80 ngày 20/7/1983 của Bộ Văn hóa “Về nhảy múa trong thanh niên”, dọn đường cho việc các sàn nhảy mang tên “khiêu vũ quốc tế” hoạt động hợp pháp.
Thậm chí khiêu vũ đã thành một môn thể dục bắt buộc trong nhiều trường đại học. Khổ nỗi, khi một phương thức giao tế trở thành môn học có thể khiến sinh viên thi lại thì nó sẽ mau chóng chỉ còn là một môn thể dục vận dụng cơ bắp, nhất là đối với cánh đàn ông.
Sau một giai đoạn thịnh vượng của khiêu vũ, giờ đây phong trào trầm lắng đến độ vợ chồng rủ nhau đi sàn nhảy có lẽ là một chuyện bất thường.
Sự lãng mạn của đời sống vấp phải vô số thứ thiếu hụt, từ nhu cầu giải trí bằng khiêu vũ tại nhà cho đến sự cạnh tranh của các phương tiện giải trí khác, hơn nữa là việc khó duy trì các sàn nhảy vì chi phí đắt đỏ.
Nhận thức mới về văn hóa ứng xử nơi công cộng
Văn hóa huê tình nơi sàn nhảy có gốc rễ từ những kiểu cách quý tộc châu Âu chưa đủ thời gian liên tục để ngấm vào từng “tế bào của xã hội” - tức các gia đình - để có thể tạo ra một thói quen cộng đồng. Xem ra khiêu vũ cũng chung số phận nhiều sản phẩm Tây phương vào Việt Nam thường được sử dụng kiểu “đi tắt đón đầu” như một thứ công cụ hình thức hơn là một nhu cầu văn hóa nội tại.
Dù vài show truyền hình thực tế kiểu Bước nhảy hoàn vũ có gây chú ý cho người xem thì ai nấy vẫn coi đó là những chương trình biểu diễn. Không có bà nội trợ nào xem xong phấn chấn đến độ lôi chồng ra sàn nhảy giao lưu. Những người nổi tiếng tham dự đều cho thấy họ vô cùng vất vả để học nhảy, thứ mà gần như trăm phần trăm số diễn viên, người mẫu, hoa hậu chưa từng dạo qua, chứ đừng nói gì đến “thạo những cách lịch sự ở Paris”.
Bản thân chương trình này cũng không kéo dài được lâu sau vài mùa, bởi chính tư duy “chinh phục thử thách” khiến cho nó chẳng khác nào môn thể dục đã đánh trượt rất nhiều sinh viên.
Suýt soát một thế kỷ trước, khiêu vũ như lời Phạm Quỳnh ghi nhận từ người đồng bào Tây học của mình, chỉ là một thứ công cụ tiến thân. Những thập niên sau, khiêu vũ bị nhiều chính thể e dè vì cái tiếng thỏa mãn nhu cầu giải khuây về mặt tình dục của đàn ông.
Cho đến nay, từ để gọi những cô gái hành nghề mại dâm phổ biến nhất rút cục xuất xứ từ tên gọi các cô vũ nữ thời Pháp - cavalìere - chứ không phải từ nào khác. Nó xác nhận một điều rằng, khiêu vũ đã không xâm nhập được vào hành vi văn hóa giao tế xã hội một cách đúng nghĩa, mà giống như một cái khăn mùi soa giắt túi, chẳng rút ra để lau nước mắt giúp một người đẹp nào mà nhiều khi chỉ là mảnh vải thừa rất đỗi khả nghi.
Đến giờ, số người mặc comple đã không nhiều, số người mang khăn mùi soa lại còn ít hơn. Chiếc khăn mùi soa hiện đại giắt túi ngực comple giờ thuần có tính trang trí thứ yếu hơn so với cà vạt, nghĩa là phụ hơn cả phụ. Đàn ông mặc comple không đeo cà vạt, không có khăn mùi soa, không nhảy đầm, vẫn tiến thân như thường!
Nhưng họ có lãng mạn không? Họ có văn minh không? Họ có biết chiều phụ nữ không? Lãng mạn, văn minh, nâng niu cái đẹp chẳng phải độc quyền của văn hóa Tây phương. Dẫu sao, khiêu vũ từng đem lại một nhận thức mới mẻ về thế giới cho người Việt.
Nó vượt qua phạm vi một sản phẩm của quá trình thuộc địa để trở thành phương tiện hữu tình của tao nhân mặc khách ở một nước Việt nóng lòng hiện đại hóa. Ít nhất thì khiêu vũ cũng khiến người Việt bận tâm về việc ứng xử nơi công cộng, điều mà kỳ lạ thay, cho đến giờ vẫn cứ gây được những cú sốc văn hóa trong xã hội.