Khoa học thúc đẩy phát triển

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030 tầm nhìn 2045, tỉnh Tuyên Quang xác định rõ đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, là động lực then chốt cho phát triển nhanh và bền vững.

Ứng dụng công nghệ vào thực tiễn

Tuyên Quang là tỉnh miền núi, địa hình phức tạp, nhiều khó khăn về hạ tầng và nguồn lực. Song với tinh thần đổi mới, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và ngành KHCN tỉnh đã nỗ lực bám sát chỉ đạo của Trung ương, cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW bằng các chương trình, đề án, kế hoạch thiết thực, gắn với nhu cầu phát triển của địa phương. Lĩnh vực KHCN và chuyển đổi số của tỉnh có những bước tiến rõ rệt, góp phần nâng cao năng lực quản lý, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất và chất lượng phục vụ nhân dân.

Đại biểu tham quan gian triển lãm chuyển đổi số tại Trung tâm Hội nghị tỉnh.

Đại biểu tham quan gian triển lãm chuyển đổi số tại Trung tâm Hội nghị tỉnh.

Giai đoạn 2020 - 2025, toàn tỉnh triển khai hơn 100 đề tài, dự án khoa học với tổng kinh phí trên 110 tỷ đồng, cùng nhiều dự án thuộc Chương trình Nông thôn miền núi và Chương trình phát triển tài sản trí tuệ. Các đề tài tập trung nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hóa gắn với xây dựng nông thôn mới, phát triển công nghiệp, dịch vụ. Nhiều sản phẩm đặc sản của tỉnh như chè Shan tuyết, bưởi Soi Hà, cam Sành, na dai, mật ong, cây dược liệu… được ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị và khả năng cạnh tranh.

Hợp tác xã Tuấn Dũng, xã Mèo Vạc là một trong những đơn vị đi đầu ứng dụng công nghệ hạ thủy phần để tách nước ra khỏi mật ong Bạc hà, tạo ra sản phẩm có tỷ lệ nước thấp hơn (khoảng 16% - 19%) và có thể bảo quản lâu hơn, giữ được chất lượng dinh dưỡng và hương vị thơm ngon đặc trưng của mật ong. Ông Thèn Văn Hải, Giám đốc HTX Tuấn Dũng cho biết: Công nghệ này giúp nâng cao giá trị của mật ong Bạc hà, đáp ứng nhu cầu về một loại mật ong nguyên chất, bền vững cho người tiêu dùng.

Đến nay, toàn tỉnh có hơn 650 sản phẩm được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, trong đó có 12 chỉ dẫn địa lý, 18 nhãn hiệu chứng nhận và hàng trăm nhãn hiệu tập thể. Công tác quảng bá, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại gắn với chuyển đổi số được triển khai mạnh mẽ, góp phần lan tỏa hình ảnh sản phẩm OCOP Tuyên Quang trên thị trường trong nước và quốc tế.

Cùng với đó, hạ tầng KHCN tiếp tục được quan tâm đầu tư. Trung tâm Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Đổi mới sáng tạo và Trung tâm Chuyển đổi số được nâng cấp, vận hành hiệu quả, phục vụ tốt công tác quản lý, điều hành và nghiên cứu. Hệ thống hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin cơ bản đáp ứng yêu cầu xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. 100% văn bản điều hành của UBND tỉnh được trao đổi dưới dạng điện tử; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến toàn trình đạt trên 80%.

Nỗ lực tạo đột phá mới

Thực tế cho thấy quá trình ứng dụng KHCN và chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh vẫn còn không ít hạn chế: hoạt động nghiên cứu chưa đồng đều, tỷ trọng kinh tế số mới chiếm 7,2% GRDP, hạ tầng số chưa đồng bộ, đặc biệt vùng sâu, vùng xa còn nhiều thôn, bản chưa có sóng viễn thông và internet. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn còn thiếu; mức đầu tư cho KHCN mới đạt khoảng 0,45% GRDP chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển.

Ứng dụng công nghệ giúp hoạt động xúc tiến thương mại nhanh chóng, tiện lợi.

Ứng dụng công nghệ giúp hoạt động xúc tiến thương mại nhanh chóng, tiện lợi.

Đồng chí Phan Đăng Đông, Phó Giám đốc Sở KHCN cho biết: Quán triệt tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW, tỉnh xác định 8 nhóm giải pháp trọng tâm để đưa KHCN và chuyển đổi số trở thành trụ cột phát triển giai đoạn 2025 - 2030. Theo đó, tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách; đề xuất HĐND, UBND tỉnh dành tối thiểu 1% chi ngân sách cho phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo, đồng thời khuyến khích hình thành quỹ KHCN trong doanh nghiệp.

Tỉnh đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp đặc sản, phát triển mô hình “nông thôn số”, “chợ số”, mở rộng thương mại điện tử, truy xuất nguồn gốc bằng mã QR và blockchain; xây dựng khu, cụm công nghiệp thông minh gắn với phát triển hạ tầng số hiện đại, đồng bộ.

Một trọng tâm khác là phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, hỗ trợ thành lập doanh nghiệp công nghệ, startup địa phương; tăng cường hợp tác “ba nhà”: Nhà nước - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp, nhằm đưa tri thức, công nghệ mới vào sản xuất, quản trị xã hội. Ngành KHCN tỉnh cũng chủ động hợp tác với các tập đoàn công nghệ lớn như Viettel, VNPT, FPT… để thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và đời sống người dân.

Bên cạnh đó, tỉnh chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng kỹ năng số cho cán bộ, công chức và người dân, nhất là ở cấp xã, phường; đẩy mạnh xây dựng cơ sở dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống, thống nhất, dùng chung” phục vụ điều hành, phát triển kinh tế - xã hội; từng bước hình thành Trung tâm giám sát, điều hành thông minh (IOC) cấp tỉnh. Tiếp tục mở rộng hợp tác, liên kết vùng và quốc tế, tranh thủ nguồn lực từ các chương trình mục tiêu quốc gia, vốn ODA và các quỹ đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, phát triển kinh tế số.

Thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị không chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội để Tuyên Quang bứt phá, rút ngắn khoảng cách phát triển với các địa phương khác. Với tinh thần chủ động, sáng tạo, đoàn kết và quyết tâm cao, ngành KHCN tỉnh tiếp tục phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, phấn đấu đưa KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành nền tảng vững chắc cho tăng trưởng nhanh, xanh, bền vững và toàn diện, góp phần xây dựng Tuyên Quang “đổi mới, bản sắc, hiện đại” trong giai đoạn mới.

Bài, ảnh: Kim Tiến

Nguồn Tuyên Quang: http://baotuyenquang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/202510/khoa-hoc-thuc-day-phat-trien-aab25aa/