Khói ấm

Sau đợt điều trị dài ngày tại lán trại cứu thương dã chiến, sức khỏe ổn định, ông Phùng tạm biệt đội ngũ y bác sĩ trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Tuổi đôi mươi, nhiều mong ước về tình yêu đôi lứa dĩ nhiên đã hình thành trong trái tim người lính trẻ. Hình ảnh cô y tá dịu dàng và hay cười khi chăm sóc thương binh. Hình ảnh cô gái thôn quê với mái tóc dài, thơm mùi bồ kết, luôn quấn gọn sau ót, ánh mắt lúc nào cũng trong veo... Ông Phùng đã bị đánh gục, để rồi ngày đêm thao thức.

1. Những đám cây khô ngùn ngụt cháy. Bom nổ. Đạn cày nát quả đồi. Trên trời máy bay quần thảo. Đồng đội có nhiều người bị thương. Máu bê bết mạn sườn, chảy dọc thái dương. Khói bốc đen kịt. Một tiếng nổ chát chúa vang lên. Đất đá thi nhau đổ xuống, bụi bay mù trời. Có ai đó băng qua mặt. Mùi mồ hôi quen lắm. Là thằng Dũng, cùng quê, nhà bên dòng sông Vệ... Ông Phùng cất tiếng gọi nhưng cổ họng khô khốc, không tài nào mở miệng được. Bóng thằng Dũng nhòa dần, tan biến...

Ông Phùng hét toáng lên rồi giật mình tỉnh dậy. Thì ra chỉ là giấc mơ. Người cựu binh chống tay ngồi dậy nhìn vơ vất ra khu vườn rộng. Một không gian xanh tốt sau đợt mưa giải nhiệt mùa hè. Ở góc vườn mấy cây xoan cũng bắt đầu đơm lá non.

Ông Phùng khoanh tay sau lưng, chậm bước ra đầu ngõ. Cách một cánh đồng là con sông, một xóm làng xanh bóng tre. Nhà ông Dũng bên ấy. Nhớ ngày xưa, hai đứa học chung lớp. Sáng tới trường, chiều chăn bò, tắm sông. Lớn lên, hai đứa cùng tham gia chiến dịch. Những ngày đầu, đứa chi viện cho trung đoàn tác chiến phía Nam, đứa thì lo hậu cần. Nhưng khi cuộc chiến diễn ra ác liệt, dồn lực cho tổng tiến công thì rất tình cờ, hai đứa cùng chung chiến hào.

Minh họa: Đặng Tiến

Minh họa: Đặng Tiến

Ông Phùng hay ra nghĩa trang thắp hương, nhất là vào dịp lễ. Đứng trước những ngôi mộ gió nằm khiêm tốn bên lối đi cuối nghĩa trang, bao giờ cũng thế, ông Phùng khẽ gọi: Dũng ơi!

2. Chiều lịm dần. Bóng đổ lênh loang, đẩy không gian núi rừng vào miền xa thẳm. Từng đám sương mờ lan ra nhuộm tím dải đồi mọc nhiều cây mua đang kỳ nở rộ. Những chùm hoa nghiêng trong gió nhẹ, phản chiếu thứ ánh nắng thoi thóp còn sót lại, mờ phai. Khung cảnh thật hoang vắng. Chỉ có tiếng chim vút qua, thảng thốt rồi mất hút. Chỉ có tiếng lá khô rơi từng đợt, xao xác. Thấp thoáng ở lưng chừng đèo, ông Phùng trong bộ quân phục cũ, mang sau lưng chiếc ba lô cũng đã cũ. Con đường mòn dẫn lên núi quanh co. Từ đỉnh núi, những đụn khói lan dần, vấn vít bay theo gió.

Đứng bên triền dốc, ông Phùng thu vào tầm mắt mình một nét xanh êm đềm uốn lượn. Đấy là dòng Đak HWay bắt nguồn từ đỉnh đèo An Khê, men theo những cánh rừng nguyên sinh, hợp lưu với các con suối nhỏ rồi đổ về sông Ba. Nhìn cảnh vật, nơi từng đi qua và gắn bó, ông da diết nhớ đến làng Nơ Pang, nhớ mùa khô năm 1972, nhớ đồng đội Dũng, không biết đang nằm ở đâu, trong nghĩa trang chỉ là những kỷ vật của nó còn sót lại, nhớ những kỉ niệm với vợ mình, bà Xoan - cô y tá cứu thương mang tên một loài hoa dân dã, dịu dàng.

Lần ấy, địch truy quét như muốn nghiền nát cánh rừng, triệt tiêu cái làng nghèo khổ của cộng đồng người Bahnar sinh sống dọc triền núi Hãnh Hót. Đêm ngày, bom gầm rú, không khí đặc mùi khói thuốc và bụi mù. Những cánh rừng xơ xác, chim muông táo tác bay. Sau mấy ngày giằng co quyết liệt, chỉ huy đơn vị ra lệnh tấn công. Nhưng chỉ một ngày sau đó, đơn vị chuyển sang phòng ngự.

Trời mùa hè ở Tây Nguyên nóng như đổ lửa, cánh rừng thưa không một ngọn gió thoáng qua, nóng bức không chịu nổi. Đội hình thực sự hoảng hốt, trở nên lộn xộn và mất kiểm soát. Thay vì phải giữ khoảng cách hành quân theo từng phân đội, từng đơn vị để có thể triển khai đội hình chiến đấu khi gặp địch.

Nhưng lúc này, ông Phùng nhớ lại mạnh ai nấy đi, người nào còn sức thì cố đi lên phía trước, những người yếu hơn, mệt hơn thì tụt lại phía sau. Rất nhiều người không thể bước được nữa, họ bỏ đội hình nằm ngay xuống mặt đất, đầu gối lên ba lô khoác nguyên trên vai, mắt nhắm nghiền, đôi môi khô khốc, những hơi thở cũng trở nên gấp gáp hơn. Ông Phùng trộm nghĩ, nếu địch đánh vào đội hình lúc này chắc chắn nhiều rủi ro.

Lúc này Thủ trưởng, phó sư đoàn trưởng cho đội hình dừng chân nằm chờ trời sáng. Trời càng về khuya sương mù dày đặc, dưới đất nóng hầm hập, anh em một số giăng tăng lên, để may đâu kiếm giọt nước hiếm hoi theo lời ai vừa nói hơi nóng từ mặt đất bốc lên, gặp sương mù, lạnh sẽ ngưng tụ thành nước. Rồi gà vừa gáy sáng đã lệnh hành quân, cứ đi chỉ thấy trước mặt là lối mòn bụi trắng. Những rừng khô táp lá. Cả đoàn lầm lũi tiến bước.

Lần ấy, bị địch phục kích ông Phùng bị thương phải đưa về hậu cứ. Suốt đêm những cơn đau hành hạ, khiến giấc ngủ cứ chập chờn, đứt quãng. Gần sáng, hơi gió lạnh làm ông tỉnh dậy. Hai mắt bị băng kín, đùi chân trái sưng vù, nặng trĩu. Ông nén đau, cố lắng tai. Có tiếng mưa rơi trong gió thì phải. Vào mùa này thường nắng nóng và bụi mù, hiếm có mưa lắm. Những ngày nắng to, rừng cây rũ lá, sông suối cạn dòng. Tìm được vũng nước giữa rừng, mừng hơn bắt được vàng, đồng đội tha hồ bơi lội.

Có ai đó mang đồ đựng nước ra hứng mưa. Tiếng gọi xa xăm. Tiếng chân hối hả. Ông Phùng nghe lòng mình xáo trộn nhẹ, bâng khuâng nhớ về những buổi chiều yên ả ở quê nhà. Cánh đồng trước ngõ đã vào vụ gặt, nhiều đám ruộng chỉ còn trơ gốc rạ, rơm vàng xuộm chờ những mồi lửa đốt đồng. Ông cùng bạn bè rủ nhau chạy dọc bờ mương, bắt con rô mắc trong vũng bùn dưới đám lục bình. Tiếng nói cười hồn nhiên cất lên.

Cứ thế, tuổi thơ trôi qua êm đềm như những đám mây lướt nhẹ trên bầu trời, như những con diều đủ màu sắc bay lượn giữa khoảng không bao la. Bất chợt, ông nghe quanh quất mùi của cơm gạo mới, mùi của vệt mồ hôi theo chân cha mẹ đi làm về. Tiếng quạt mo khe khẽ. Tiếng con gà nhảy ổ ban trưa. Cả tiếng thằng Dũng, da đen, tóc khét nắng nữa, đứng đầu ngõ chờ ông...

- Anh dậy rồi ạ, đêm qua anh mơ gì mà hét lên dữ thế!

Cô y tá cúi người băng lại vết thương cho ông Phùng. Người chiến sĩ trẻ có vẻ ngượng ngùng khi mình mặc độc chiếc quần đùi, người chỉ phủ tấm vải dù mỏng. Cô y tá mỉm cười, nhẹ nhàng từng động tác. Ông Phùng cố co duỗi xem chân của mình có còn nguyên vẹn không.

3. Sau đợt điều trị dài ngày tại lán trại cứu thương dã chiến, sức khỏe ổn định, ông Phùng tạm biệt đội ngũ y bác sĩ trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Tuổi đôi mươi, nhiều mong ước về tình yêu đôi lứa dĩ nhiên đã hình thành trong trái tim người lính trẻ. Hình ảnh cô y tá dịu dàng và hay cười khi chăm sóc thương binh. Hình ảnh cô gái thôn quê với mái tóc dài, thơm mùi bồ kết, luôn quấn gọn sau ót, ánh mắt lúc nào cũng trong veo... Ông Phùng đã bị đánh gục, để rồi ngày đêm thao thức.

Trong túi áo của ông luôn có cuốn sổ nhật ký. Ông nắn nót từng dòng về những trải nghiệm của đời quân ngũ, những lúc nhận lệnh phải hành quân bí mật trong đêm, những giờ phút ngưng tiếng súng nghỉ chân bên dòng sông thơ mộng. Đặc biệt, những trang ghi chép về nỗi nhớ nhà và cô y tá tên Xoan được ông Phùng thể hiện đầy cảm xúc nhất.

Chuyện ông Phùng tương tư không qua được mắt đồng đội tên Dũng. Họ tâm sự với nhau trong khoảng thời gian ngừng chiến. Ông Phùng còn cho bạn mình xem những bức thư dính bụi và nặng mùi thuốc súng. Ông luôn mơ tưởng và nhớ về người con gái ấy. Trong những lần mơ chóng vánh là cuộc gặp gỡ bên bờ suối, dưới bóng trăng khuya. Bao giờ cũng thế, cảm giác dịu êm miên man khắp tế bào khi ngửi mùi bồ kết phảng phất từ làn tóc, cả đôi tay mềm ấm rụt rè khi lần đầu hai người chạm nhau.

- Cái tên nghe chân chất và hiền lành!

- Thật hả anh? Vậy mà mẹ em bảo, mi mà cứ mạnh mẽ thế này thì ế đến già!

- Ấy chết, không bản lĩnh sao dám xung phong vào nơi lửa đạn được!

Cả hai cười vui vẻ, khoảng cách được thu hẹp. Họ tự nhiên hơn khi bày tỏ những nghĩ suy và quan niệm. Cô Xoan kể cho ông Phùng nghe về quê nhà, về người mẹ tảo tần khuya sớm:

- Anh biết vì sao tên em là Xoan không?

Ông Phùng bất ngờ, nghĩ nhanh đến những cái tên mộc mạc, quen thuộc thường đặt cho các cô gái thôn quê. Nhưng ông lại trêu:

- Vì cô đẹp như hoa!

- Không phải đâu...

Giọng cô Xoan chùng xuống. Cô nhớ lại lời mẹ kể. Đã gần hai mươi năm trôi qua, những tưởng mọi chuyện chìm vào quên lãng, những kỉ niệm sẽ bị xóa nhòa. Nhưng lạ thay, giữa chiến trường ác liệt, cái chết luôn cận kề này, niềm tin cứ mãi ngời sáng. Điều ấy được thắp lên từ một cái tên, từ một tình yêu đẹp giữa cha và mẹ. Cô Xoan bồi hồi:

- Cha em cũng là một người lính. Đến bây giờ, hai cha con vẫn chưa biết mặt nhau...

Ông Phùng ôm chặt bờ vai cô y tá bé nhỏ, an ủi, động viên. Ánh mắt cô Xoan buồn lắm nhưng vẫn gượng cười, lặng nhìn xa xăm. Nơi ấy là làng quê. Cô nhớ những ngày cuối xuân mưa phùn lất phất, hai bên đường, những vòm xoan bắt đầu nở hoa. Màu của nó lạ lắm, vẻ đẹp trong sự pha trộn của hai màu trắng và tím, cứ mơ màng và mong manh làm sao.

- Mẹ bảo đấy là màu chung thủy, màu của yêu thương!

Cô Xoan vẫn còn hồi ức, giọng đầy thổn thức. Chờ sự xúc động của cô gái mình vừa đem lòng yêu thương lắng xuống, ông Phùng thỏ thẻ rằng ở quê ông cũng nhiều xoan lắm. Hoa này có mùi đặc biệt, không giống hương của các loài khác. Nhìn xa trông đẹp nhưng lại gần, cái mùi cứ hăng hắc, nồng nàn. Vậy mà người dân lại ưa chuộng, bởi nó là loài hoa gắn liền với xóm làng, quê kiểng.

- Cha mẹ em thương nhau vào mùa xoan nở. Một năm sau, mùa xuân vừa tàn, đầu làng, dọc bờ sông sắc hoa tím biếc...

Ông Phùng chăm chú nghe. Chốc chốc lại hướng mắt về chòm xoan mọc lẻ loi bên triền dốc. Ngọn cây bị bom đạn phạt ngang, rũ xuống.

Cô Xoan bỗng mỉm cười:

- Em vào chiến trường cũng muốn được gặp cha, biết đâu chừng...

Một thoáng lặng yên vây lấy. Chỉ nghe tiếng muỗi vo ve bên bụi cây sát lán trại. Chỉ còn mùi thuốc súng váng vất đâu đây.

4. Ông Phùng trở lại chiến trường xưa đúng vào dịp mùa rẫy vừa xong. Con suối Ktung miên man dòng chảy, in bóng mây, bóng núi. Cuộc sống dân làng Nơ Pang thay đổi, nhiều hộ gia đình khá lên từng ngày. Dân làng tiếp rượu ông Phùng trên sàn nhà rông. Những ghè rượu quý được mang ra, cứ thấy vơi rồi lại rót cho đầy. Trời khuya, nhiều người lần lượt ra về, ông Phùng cùng vài người từng vào sinh ra tử nán lại nâng chén ôn chuyện xưa.

- Cô y tá ấy, người đâu mà đẹp quá!

Ông Phùng vừa nghe ai đó nhắc đến vợ mình trong hơi men, trong giọng líu đi vì say. Ông gật đầu cười và cảm giác lòng mình chộn chạo thầm nghe ký ức gọi tên. Trước mắt ông là những ngọn đồi mọc đầy cây xoan, có một cái hang đá, đơn vị đã ẩn nấp vào đấy khi vượt đường lỡ chuyến. Kia là hòn Đá Đen. Đỉnh núi cao nhất trong dãy núi, có địa hình hiểm trở, lá chắn vững chãi cho quân giải phóng. Nhưng chính trong địa phận này, nhiều chiến sĩ đã ngã xuống vì lọt vào tầm phục kích.

5. Đêm dần về sáng, ánh trăng nghiêng chếch đằng Tây lẫn vào mù sương quánh đặc trông thật ảo ảnh. Trong bếp lửa rực hồng, ấm nước bắt đầu reo lên. Ông Phùng thức dậy sớm, vì lạ nơi khó ngủ và cũng là thói quen hình thành từ thời quân ngũ. Hình như đã giữa mùa hè. Đây không hẳn là khoảng thời gian đẹp nhất trong năm, nhưng ông Phùng lại thích vì cái không khí dịu dàng từ cơn mưa giông sau những ngày nắng oi, dai dẳng, vì thời điểm những nhành xoan bắt đầu thay lá.

- Bác không ngủ thêm, hôm qua đi đường đã mệt!

Trưởng thôn Hoành vừa cời than vừa nhìn ra ngoài trời. Bóng ông Phùng in chập chờn trên vách ván trong ánh sáng nhạt mờ.

- Tôi không ngủ được. Chòm xoan bên triền đèo còn không nhỉ?

- Vẫn còn bác ạ!

Sáng hôm sau, ông Phùng cùng trưởng thôn Hoành băng qua con đường đất đỏ xuyên giữa rừng cà phê đơm bông trắng ngần để lên thăm trận địa cũ. Thỉnh thoảng, gặp đoạn dốc cao, đủ cho người cựu binh trên bảy mươi cảm thấy mỏi đầu gối, dừng chân nghỉ mệt. Ông Phùng đi trong miên mải, trong dạt dào cảm xúc. Chiến tranh, điều gì cũng có thể xảy ra, cả hội ngộ và chia ly cũng thế, không ai lường trước được.

Ngày lán trại cứu thương dã chiến được lệnh chuyển vào rừng sâu cũng là lúc ông đến tìm cô Xoan. Mảng kí ức đứt nối về ngày cũ cứ xoắn lấy ông. Những thanh nứa xếp khít lại để ông nằm còn kia, đống củi cháy nham nhở đầy muội than, cái vũng nước đọng bùn lênh láng... Ông chỉ biết đứng tần ngần, nhìn quanh, tay mân mê cuốn sổ nhỏ.

6. Tạm biệt trưởng thôn Hoành cùng dân làng nơi mình từng được đùm bọc chở che, ông Phùng xốc ba lô lên lưng hướng về phía nghĩa trang nằm lặng lẽ bên cánh đồng rộng lớn ở thung lũng Song An. Nơi ấy mấy năm trước nhiều hài cốt liệt sĩ là đồng đội của ông được tìm kiếm, quy tập về. Đứng trước hàng trăm ngôi mộ có tên và chưa biết tên, ông Phùng nghẹn ngào. Ngày tòng quân đều bước một lượt trong niềm tự hào vô kể nhưng ngày trở về thì... Ông Phùng vẫn nhớ như in bản tin trưa ngày giải phóng. Ông về làng trong nắng đầu hè rực rỡ, trong sắc cờ đỏ sao vàng tung bay.

Nhiều người cũng trở về. Có người mất đi một phần thân thể nhưng vẫn vui vì họ còn may mắn hơn bao nhiêu người khác. Ông Phùng rất buồn vì không thấy đồng đội Dũng trở về. Ông Phùng tìm đến nhà cô Xoan mới biết cha mẹ cô đã đoàn tụ trong nước mắt và nhớ nhung, còn cô y tá xinh đẹp, tình yêu ban sơ nhưng quá đỗi ngọt ngào trong thời chiến đã ra Bắc học tiếp, dĩ nhiên đã để lại một lời hẹn và niềm tin bất diệt.

7. Con đường dẫn vào nghĩa trang những ngày cuối tháng Bảy rợp sắc cờ hoa. Những ngôi mộ cũng được quét dọn và có thêm bình hoa tươi thắm. Chiều đã muộn nhưng vẫn còn nhiều người đến viếng. Ngồi cùng với nhóm lính trẻ ở băng ghế đá dưới tán cây đại cổ thụ, ông Phùng, người cựu chiến binh đã hồi ức những câu chuyện về chiến tranh, về những người đồng đội, có người trẻ măng như các cháu bây giờ. Họ đã sẵn sàng xếp bút nghiên lên đường chiến đấu theo tiếng gọi của non sông...

Những người lính trẻ nghe như nuốt từng lời. Ông Phùng cũng xúc động không kém. Ông đưa tay quệt ngang mắt rồi như thể nhớ ra điều gì đấy, ông ngước mắt về đài tưởng niệm. Những nén nhang lập lòe trong buổi hoàng chiều lãng đãng. Rồi ông lần túi áo lấy ra một bức thư đã nhàu, bảo đây là kỉ vật thiêng liêng của một đồng đội đã hy sinh nhưng chưa tìm thấy hài cốt.

Nhóm lính trẻ không ai bảo ai họ lặng lẽ xếp hàng và lần lượt khấn nguyện hầu hết các ngôi mộ. Dĩ nhiên, họ không bỏ quên những ngôi mộ gió ở phía cuối nghĩa trang.

Dưới bóng hoàng hôn buông phủ, từng làn khói ấm bay lên.

Truyện ngắn của Sơn Trần

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/truyen/khoi-am-i790143/