Khơi dậy tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến từ 'Tuyên ngôn Độc lập'

Bản Tuyên ngôn Độc lập - áng hùng văn của thời đại mới vang vọng giữa trời thu lịch sử ấy, từ lâu đã trở thành ngọn cờ dẫn lối, hun đúc niềm tự hào và khát vọng trường tồn cho mọi thế hệ con Lạc cháu Hồng.

Yêu nước và tự hào dân tộc dâng tràn qua từng bài giảng

Cùng với “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, bản “Tuyên ngôn Độc lập” là tác phẩm bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn. Trong đó, bản “Tuyên ngôn Độc lập” được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 12 ở cả 3 bộ sách hiện hành, gồm Cánh Diều, Kết nối tri thức với cuộc sống và Chân trời sáng tạo.

Cô giáo, Ths. Nguyễn Thị Hương và học sinh trong tiết học về bản “Tuyên ngôn Độc lập”.

Cô giáo, Ths. Nguyễn Thị Hương và học sinh trong tiết học về bản “Tuyên ngôn Độc lập”.

Với biết bao thế hệ thầy cô giáo và học sinh trên dải đất hình chữ S này, bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng đọc trước toàn thể quốc dân đồng bào, bạn bè quốc tế tại Quảng trường Ba Đình cách đây 80 năm không đơn thuần là tác phẩm chính luận đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.

Hơn tất thảy, đó là áng văn lập quốc vĩ đại, chuyển tải những thông điệp, khát vọng bất diệt của một dân tộc đã anh dũng phá tan xiềng xích nô lệ, đấu tranh giành độc lập, tự do. Vì lẽ đó, mỗi tiết dạy và học tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập” là những phút giây dâng tràn cảm xúc vinh dự, tự hào và khơi dậy tinh thần yêu nước mãnh liệt.

Cô giáo, Ths. Nguyễn Thị Hương, giáo viên môn Ngữ Văn, Trường THPT Quảng Xương I, chia sẻ: “Nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhắc đến một con người yêu nước mãnh liệt, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất. Người đã để lại một di sản văn học lớn lao về tầm vóc tư tưởng, phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách nghệ thuật. Văn chương của Chủ tịch Hồ Chí Minh là di sản vô giá gắn bó hữu cơ với sự nghiệp cách mạng của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Tuyên ngôn Độc lập” bằng bầu máu nóng của tình yêu con người cùng tài năng, tâm huyết của một lãnh tụ”.

Trong hơn 20 năm giảng dạy Ngữ văn, cô Hương không nhớ mình đã bao nhiêu lần đứng trên bục giảng, ngồi trước màn hình máy tính say sưa giảng giải, truyền đạt, trao đổi với học trò về hoàn cảnh ra đời, đặc sắc nội dung, giá trị nghệ thuật, ý nghĩa của bản “Tuyên ngôn Độc lập”.

Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của “Tuyên ngôn Độc lập”, thế hệ con cháu hôm nay khắc ghi trong tâm trí những ngày mùa thu lịch sử năm 1945, trong thời gian gấp gáp, dẫu còn mệt do đi đường xa và mới bình phục sau trận ốm nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn miệt mài làm việc. Căn gác hai ở ngôi nhà 48 Hàng Ngang - “căn buồng nhỏ thiếu ánh sáng của ngôi nhà sâu thẳm, nằm giữa một trong ba mươi sáu phố phường cổ kính của Hà Nội” là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo những con chữ đầu tiên của bản “Tuyên ngôn Độc lập”.

Tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn bất hủ, văn kiện chính trị có giá trị lịch sử lớn lao, có giá trị pháp lý vững chắc, giá trị tư tưởng cao đẹp, giá trị nghệ thuật mẫu mực và giàu giá trị nhân văn, đã đanh thép khẳng định nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do ấy.

“Đó là những trang văn viết bằng máu và nước mắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng và của toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung. Hùng tâm của người cầm bút bắt gặp hùng khí của thời đại đã tạo nên áng văn muôn đời. Đằng sau lập luận đanh thép là cảm xúc vô biên cuồn cuộn trong mỗi chữ, mỗi dòng” - cô Hương nhận định.

“Tuyên ngôn độc lập” trong trái tim những người trẻ

“Nắng Ba Đình mùa thu/ Thắm vàng trên lăng Bác/ Vẫn trong vắt bầu trời/ Ngày Tuyên ngôn độc lập”... (Nắng Ba Đình – Nguyễn Phan Hách).

Có những khoảnh khắc trong lịch sử mãi mãi khắc sâu vào tâm khảm dân tộc, trở thành ngọn cờ dẫn đường cho muôn đời sau. “Tuyên ngôn Độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là áng văn bất hủ như thế - một bản hùng ca bất diệt của dân tộc Việt Nam trên hành trình khẳng định quyền sống, quyền tự do, quyền hạnh phúc. Trong trái tim những người trẻ, “Tuyên ngôn Độc lập” là lời nước non vang vọng mãi ngàn năm.

“Đọc tác phẩm, em cảm phục trước tầm vóc trí tuệ và trái tim yêu nước cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngòi bút chính luận của Người vừa sắc bén trong lý lẽ, vừa nồng nàn trong cảm xúc. Những câu văn ngắn gọn, dứt khoát, vang vọng như tiếng sấm, khiến trái tim người đọc rung lên trong niềm tự hào tột cùng”, đó là những bộc bạch của cô gái trẻ Lê Kỳ Duyên, xã Linh Sơn.

Áng hùng văn của thời đại mới vang vọng giữa trời thu lịch sử ấy, từ lâu đã trở thành ngọn cờ dẫn lối, hun đúc niềm tự hào và khát vọng trường tồn cho mọi thế hệ con Lạc cháu Hồng. Kỳ Duyên nói trong rưng rưng cảm xúc: “Bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã cho em cơ hội được nghe thấy nhịp tim của cả một dân tộc, thấy bóng dáng của những người đã ngã xuống cho độc lập hôm nay. Trong em như được sống dậy giây phút lịch sử giữa Quảng trường Ba Đình năm 1945, khi dân tộc Việt Nam lần đầu tiên cất tiếng khẳng định quyền sống, quyền tự do và quyền hạnh phúc của mình trước toàn thế giới. Em càng thấm thía giá trị của hòa bình, càng trân trọng tự do và tự nhủ mình phải sống xứng đáng hơn, học tập, rèn luyện, cống hiến để góp phần giữ gìn non sông gấm vóc mà cha ông đã đổi bằng máu xương”.

Đọc tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập”, cô gái trẻ Lê Kỳ Duyên, xã Linh Sơn, luôn cảm phục trước tầm vóc trí tuệ và trái tim yêu nước cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đọc tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập”, cô gái trẻ Lê Kỳ Duyên, xã Linh Sơn, luôn cảm phục trước tầm vóc trí tuệ và trái tim yêu nước cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Với cây viết trẻ Lê Đình Trung, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Thanh Hóa, bản “Tuyên ngôn Độc lập” là di sản bất diệt của dân tộc Việt Nam mà những người cha ông thế hệ đi trước đã không tiếc máu xương, tuổi thanh xuân với những ước mơ còn dở dang phía trước để chiến đấu, hy sinh cho nền độc lập dân tộc mới có được. Hòa bình và độc lập vốn chẳng phải là điều hiển nhiên, mà là sự đánh đổi, những mất mát hy sinh chẳng thể nào đong đếm. Trong những ngôi làng, trên mỗi ban thờ của từng gia đình dấu vết chiến tranh vẫn còn đó qua những tấm ảnh liệt sĩ, những nghĩa trang của những người nằm xuống được Tổ quốc ghi công.

Niềm vinh dự và tự hào thấm đẫm từng dòng chữ của bản Tuyên ngôn được truyền đi mạnh mẽ trong mọi thời đại. “Bản “Tuyên ngôn Độc lập” chính là bài học về giá trị của hòa bình và trách nhiệm của những thế hệ sau về việc gìn giữ hòa bình, độc lập ấy, để hiểu sâu sắc hơn thế nào là độc lập, thế nào là tự do, lòng yêu nước. Từ đó, thêm một lần khắc ghi công ơn của bao thế hệ đi trước và để vinh dự, tự hào mỗi khi cất lên câu nói: “Tôi là người Việt Nam” - cây viết trẻ Lê Đình Trung bày tỏ.

Ngày hôm nay, cùng không khí hân hoan của cả nước trong những ngày kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công, Quốc khánh 2/9, cả dân tộc như đang cùng sống lại phút giây lịch sử trọng đại, nghe vang vọng tiếng Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” trên kỳ đài, trầm ấm hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”...

Hương Thảo

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/khoi-day-tinh-than-yeu-nuoc-va-khat-vong-cong-hien-tu-tuyen-ngon-doc-lap-260318.htm