Khởi tố bị can vụ Bia Saigon Vietnam nhái Sabeco
Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã khởi tố bị can đối với pháp nhân là Công ty cổ phần tập đoàn bia Sài Gòn Việt Nam về tội 'xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp'. TCDN -
Quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân là Công ty cổ phần tập đoàn bia Sài Gòn Việt Nam - (Bia Saigon Vietnam) có trụ sở chính tại số 264 Lê Thánh Tông, phường Bến Thành, Q.1, TP.HCM đã được Viện KSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phê chuẩn.
Kết quả điều tra ban đầu cho thấy Công ty cổ phần tập đoàn bia Sài Gòn Việt Nam được Sở Kế hoạch - đầu tư TP.HCM cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp công ty cổ phần do các ông bà Lê Đình Trung, Trần Thị Ái Loan và Trần Thị Khánh Hà là cổ đông sáng lập.
Theo hồ sơ vụ việc, tháng 4/2020, bà Trần Thị Ái Loan (người đại diện theo pháp luật của công ty) ký hợp đồng hợp tác sản xuất nhãn hiệu bia "Sai Gon Viet Nam" với ông Vũ Tuấn Châu - chủ cơ sở sản xuất bia BiVa (TP Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Theo đó, cơ sở BiVa chỉ được sản xuất bia "Sai Gon Viet Nam" với nhãn hiệu và chất lượng do Công ty cổ phần tập đoàn bia Sài Gòn Việt Nam cung cấp.
Đến tháng 6/2020, cơ sở BiVa đã sản xuất và bán cho Công ty cổ phần tập đoàn bia Sài Gòn Việt Nam 4.200 thùng bia nhãn hiệu "Sai Gon Viet Nam", thu về hơn 365 triệu đồng. Công ty cổ phần tập đoàn bia Sài Gòn Việt Nam đã bán 3.300 thùng bia cho khách hàng, thu về hơn 578 triệu đồng, số còn lại được làm quà tặng để quảng bá.
Ngày 23/6, cơ sở BiVa giao thêm cho Công ty cổ phần tập đoàn bia Sài Gòn Việt Nam 4.712 thùng bia "Sai Gon Viet Nam" thành phẩm thì bị lực lượng chức năng kiểm tra, thu giữ vì có dấu hiệu "xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp".
Kết quả giám định cho thấy sản phẩm bia "Sai Gon Viet Nam" do Công ty cổ phần tập đoàn bia Sài Gòn Việt Nam thuê cơ sở BiVA sản xuất có nhãn hiệu trùng và tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được bảo hộ của Công ty cổ phần Bia - rượu- nước giải khát Sài Gòn (Sabeco).
Điều này được xác định là "có dấu hiệu tội phạm Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, quy định tại Khoản 2, điều 226 Bộ luật hình sự; căn cứ điều 36, điều 143, khoản 1, điều 153, điều 154 Bộ luật TTHS".