Không có điện thoại, Internet, người xưa truyền đạt tin tức như thế nào, nhất là truyền đạt mệnh lệnh quân sự?
Trong các cuộc chiến tranh ở thời cổ đại, làm thế nào để chuyển tải các mệnh lệnh quân sự khi không có các thiết bị liên lạc tiên tiến hiện đại như điện thoại, điện báo?
Tháp đèn hiệu
Vào thời cổ đại, không có các công cụ giao tiếp hiện đại. Tháp đèn hiệu một phương tiện truyền tải thông tin. Sử dụng khói sói làm tín hiệu vào ban ngày và đốt lửa vào ban đêm có thể coi là cảnh báo. Trước khi Quan Vũ tấn công Tào Ngụy vào thời Tam Quốc, ông đã sử dụng ngọn lửa trên tháp đèn hiệu làm tín hiệu.
Từ thời nhà Chu đến thời nhà Thanh, các ngọn hải đăng luôn đóng vai trò truyền tải thông tin trong quân đội. Nhiều tháp đèn hiệu đã được xây dựng trên Vạn Lý Trường Thành, và chúng đã được bảo vệ bởi những binh lính trong ba nghìn năm. Vạn Lý Trường Thành bây giờ chỉ có chức năng ngắm cảnh, nhưng thời xa xưa, nó là để trấn giữ đất nước và hàng rào được canh gác cẩn mật.
Người đưa thư
Thời xưa không có phương tiện giao thông phát triển, mọi người nếu muốn ra ngoài thì ngoại trừ dùng ngựa, chỉ có thể đi bộ; muốn truyền tin tức kịp thời cần phải dùng hết tốc độ mà chạy thật nhanh. Trong đó có một loại gọi là “Bát bách lý gia cấp” (tám trăm dặm tốc hành), khi thổ phỉ gặp loại vận chuyển này sẽ không dám mạo hiểm cướp bóc.
Trong lịch sử có ghi chép sự kiện Đồng Trị đế vì muốn giết An Đức Hải, lo sợ Từ Hy thái hậu biết chuyện sẽ ngăn cản nên đã dùng “Bát bách lý gia cấp” để truyền đi thánh chỉ của mình.
Thật ra, trên đường đi, có nhiều hơn một người làm nhiệm vụ truyền chiếu chỉ của triều đình. Bởi vì vào thời cổ đại, việc truyền tin và thư tín phần lớn đều là dùng người điều khiển ngựa nên thường sẽ có các dịch trạm (trạm dừng chân) trên đường vận chuyển, người cưỡi ngựa sẽ dừng lại khi đến dịch trạm. Hơn nữa, những bức thư họ truyền đi đều có ghi dòng chữ “Trao ngay lập tức”. Thường họ sẽ đổi người và ngựa khác sau khi đến dịch trạm để tiếp tục lên đường, như thế mới có thể đảm bảo được tốc độ yêu cầu.
Bồ câu đưa thư
Con người thuần hóa chim bồ câu từ hơn 5.000 năm trước. Kể từ đó, người xưa bắt đầu huấn luyện chim bồ câu để nó vận chuyển thư tín, mệnh lệnh, thông tin quân sự quan trọng tới nhiều vùng chiến sự khác nhau. Chim bồ câu có khả năng bay hàng nghìn km hoặc xa hơn với tốc độ bay khoảng 100 km/h đến 180 km/h.
Không những vậy, chim bồ câu có khả năng ghi nhớ lộ trình rất tốt. Vì vậy, ngay cả khi không chuyển tin trong khoảng thời gian dài ở một khu vực thì chim bồ câu vẫn bay đến vị trí chỉ định chính xác. Ngoài ra, do chim bồ câu bay trên trời nên có nhiều ưu thế trong việc vận chuyển thư tín, mệnh lệnh quân sự hơn so với con người. Loài vật này có thể bay nhanh và cao nên khó bị quân địch phát hiện và tiêu diệt.
Tiếng chuông, trống chiến....
“Mộ cổ thần chung” (tối trống sáng chuông) mô tả âm thanh của chuông và trống được sử dụng bởi các ngôi chùa Phật giáo để báo khởi đầu buổi sáng và bắt đầu buổi tối. Ở các thành đô Trung Quốc cổ đại đều có tháp chuông và tháp trống, tiếng chuông và tiếng trống được dùng để báo thời gian trong thời bình, khi gặp tình huống khẩn cấp thì nó được sử dụng để cảnh thị.
Vào đầu thời nhà Thanh, chuông sẽ được đánh sau khi trống đánh vào canh một (7 giờ tối), và cổng thành sẽ được đóng ngay lập tức; sau đó, từ canh hai đến canh tư (mỗi canh là một thời thần, tương đương hai giờ ở thời hiện đại), mỗi canh đánh một hồi chuông, cho đến khi kết thúc canh 5 (lúc 5 giờ sáng ngày hôm sau) lại đánh một hồi chuông, mở các cổng thành.
Sau đó, Càn Long đã bãi bỏ tiếng chuông báo từ canh 2 đến canh 4, chỉ giữ lại chế độ thông báo đóng mở cổng thành bằng tiếng chuông và tiếng trống. Khi vị Hoàng đế cuối cùng, Phổ Nghi, chuyển khỏi Tử Cấm Thành vào năm 1924, tiếng chuông và tiếng trống cũng biến mất.
- Video: Bí ẩn ngọn đèn "cháy sáng ngàn năm không tắt" trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Nguồn: VTV24.