Không có điện thoại, thư từ, Ninja làm cách nào chuyển tin mật?
Là một trong những thế lực nghe tên đã phải sợ hãi trên thế giới, ít ai biết rằng, từ ngày đầu tiên ra đời nhiệm vụ chính của các ninja là do thám. Tuy nhiên, khi có được thông tin rồi, họ làm thế nào để chuyển về cho thủ lãnh.
Có những sự việc có thời gian để chờ báo, nhưng với những thông tin cấp bách, ninja phải tìm phương pháp nhanh nhất để chuyển về. Để phục vụ cho việc này, họ đã phát triển một số cách thức để chuyển thông tin trên những khoảng cách xa được gọi là Dentatsu-Jutsu.
Mã hóa dưới dạng âm thanh
Các ninja sẽ sử dụng các công cụ khơi dậy thính giác và thị giác như:trống, chuông, cồng chiêng làm công cụ phát đi tín hiệu. Theo nhiều ghi chép để lại, các ninja thời xưa thường sử dụng vỏ ốc xà cừ để thổi. Họ sẽ đi theo chiều gió trên một con đường ở trên núi và thổi ra những âm thanh theo các quy ước sẵn có để đồng đội của họ khi tiếp nhận thông tin có thể hiểu được.
Ngoài ra, họ còn sử dụng những hạt gạo được nhuộm với 5 màu khác nhau hay những sợi dây thừng, nhánh cây được sắp đặt và thỏa ước riêng để làmcông cụ truyền tin hữu hiệu.
Hệ thống tín hiệu
Trong trường hợp có nhiều ninja cùng phối hợp để truyền tải các thông tin quan trọng từ những nơi xa, họ thường sử dụng Semaphore – hệ thống tin tín hiệu bằng cách đặt tay hoặc hai lá cờ theo một vị trí nào đó nhằm biểu thị các con chữ của vần chữ cái để truyền tin. Còn được gọi là Mekiki-no-Koto, phương pháp này cho phép một ninja sẽ trèo lên đỉnh một ngọn đồi và dùng 2 ngọn cờ được cầm ở 2 bàn tay để gửi thông điệp cho các ninja khác cũng đang đứng ở trên một ngọn đồi khác.
Cứ như vậy, việc truyền tin sẽ được thực hiện cho đến khi thông tin đến được nơi cần đến.Ở phương pháp truyền tin này, rất nhiều thông tin có thể được chuyển đi bằng sự kết hợp nhất định giữa 2 lá cờ và những động tác cơ thể của người gửi tin, tương tự như hệ thống tín hiệu Morse.
Hệ thống đèn hiệu Noroshi
Việc áp dụng Semaphore chỉ có thể áp dụng vào ban ngày, còn khi đêm xuống, những khu vực đồi núi sẽ chìm vào bóng đêm, các ninja sẽ chuyển tin mật bằng cách sử dụng một thứ vũ khí có tên gando, đóng vai trò như một chiếc đèn pin. Các ninja là bậc thầy về sử dụng vũ khí và họ đều là những chuyên gia về sáng tạo, vậy nên trong trường hợp này, họ thường sử dụng ánh sáng cùng với một bộ mã hiệu để truyền tin. Thêm vào đó, các ninja cũng sử dụng các hệ thống đèn hiệu như một cách thức hiệu quả để truyền tin.
Trong tiếng Nhật, đèn hiệu được gọi là “noroshi” còn bản thân từ noroshi có nghĩa là khói của những con sói. Sở dĩ có tên như vậy là do phân của những con sói thường được dùng làm nhiên liệu để tạo khói, dựa trên đặc điểm phân chó sói Nhật khi đốt sẽ tạo khói bốc thẳng lên trời.
Vào ban ngày hay buổi tối, có rất nhiều nhà đốt lửa để nấu cơm hay sưởi ấm. Tuy nhiên, khói bốc ra từ những ngôi nhà như vậy thường theo một góc nghiêng. Vì vậy khói từ phân chó sói trở nên rất hữu dụng trong việc tạo tín hiệu vì khói đó sẽ bốc lên theo chiều thẳng đứng. Việc sử dụng khói này thường có hiệu quả trong phạm vi từ 40 đến 80km, tức xa hơn nhiều so với hệ thống tín hiệu semaphore.
Thẻ gỗ “Warifu”
Dù các ninja đã thành công trong việc đánh cắp tin mật từ kẻ thù nhưng việc trao đổi thông tin sẽ chỉ được xem là hoàn tất khi thông tin đến được với vị lãnh chúa mà ninja phục vụ. Song, kể cả khi tin đã đến nơi cần đến thì vẫn ẩn chứa một vấn đề, đó là khả năng các ninja đã trao đổi thông tin mà đối thủ cài cắm.
Để xác minh thông tin, các ninja sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó có phương pháp xác nhận danh tính có tên “Warifu”. Warifu là một bảng gỗ nhỏ được cắt thành 2 phần bằng nhau. Trên mặt của một Warifu, người ta viết lên một chữ cái nào đó trước khi tách nó ra làm đôi.
Mỗi ninja sẽ giữ một mảnh Warifu bên mình, khi gặp nhau, họ cần chìa 1 nửa Warifu ra để chứng minh thân phận. Đây là cách thức rất đơn giản để xác minh nhận dạng và cũng rất hiệu quả nên được sử dụng rộng rãi không chỉ ở Nhật Bản mà còn ở Trung Quốc, châu Âu. Hệ thống mật khẩu xác thực từ xa xưa đã là cách thức được sử dụng để nhận dạng.