Không đăng ký kết hôn,có được yêu cầu cấp dưỡng và chi phí nuôi con?
*Bạn đọc hỏi: chị Cúc, hiện sống tại Đà Nẵng, hỏi: Năm 2020, tôi và bạn trai cũ sống chung và có với nhau một đứa con (đã giám định ADN). Mặc dù nhận con nhưng sau khi sinh bé, anh ấy không đồng ý kết hôn nên chúng tôi chia tay. Sau đó, tôi đã làm khai sinh con theo họ mẹ, tự mình trực tiếp nuôi con mà không yêu cầu anh ấy hỗ trợ. Cho đến nay, do đang gặp một số khó khăn tài chính nên tôi muốn liên hệ để yêu cầu anh ấy hỗ trợ nuôi con. Tuy nhiên, vì không đăng ký kết hôn nên tôi không biết liệu anh ấy có nghĩa vụ hỗ trợ tôi không và tôi sẽ được yêu cầu mức hỗ trợ là bao nhiêu? Ngoài ra, nếu tôi muốn yêu cầu anh ấy thanh toán một phần chi phí nuôi con trước đó thì có được không?

Luật sư Phan Thụy Khanh
*Luật sư Phan Thụy Khanh – Phó trưởng Văn phòng Luật sư Phong & Partners, trả lời:
Hiện nay, trong xã hội hiện đại, việc các cặp đôi lựa chọn sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn – hay còn gọi là “sống thử” – ngày càng trở nên phổ biến, nhất là đối với giới trẻ. Hiện tượng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: mong muốn tìm hiểu kỹ lưỡng hơn trước khi tiến đến hôn nhân, sự thay đổi trong tư duy về đời sống gia đình trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa…. Tuy nhiên, hệ quả của việc sống thử không chỉ dừng lại ở khía cạnh tình cảm, mà còn phát sinh nhiều vấn đề pháp lý liên quan, đặc biệt là nếu giữa hai người hình thành mối liên kết mang tên “con chung”. Khi người đàn ông từ chối kết hôn hoặc chấm dứt mối quan hệ, những người mẹ đơn thân thường một mình gánh vác trách nhiệm nuôi con. Điều này tạo áp lực rất lớn lên người mẹ, nhất là những lúc gặp khó khăn về kinh tế và cần sự hỗ trợ tài chính của bên còn lại. Lúc này, việc hiểu rõ các quy định pháp luật liên quan đến cấp dưỡng là điều vô cùng cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con. Chị Cúc có thể tham khảo câu trả lời của Luật sư như dưới đây.
Thứ nhất, cha mẹ không đăng ký kết hôn có phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con chung không?
Khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về khái niệm cấp dưỡng như sau: “Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này.”
Căn cứ theo quy định trên, có thể hiểu nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con chung phát sinh khi họ: (i) không trực tiếp chung sống với con và; (ii) đã được xác nhận có mối quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng đối với con.
Như vậy, việc đăng ký kết hôn của cha mẹ không phải là điều kiện bắt buộc để làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con chung. Trong trường hợp của chị Cúc, việc bạn trai cũ của chị không sống cùng con nhưng đã thừa nhận con chung cũng như có kết quả giám định ADN là bằng chứng vững chắc chứng minh mối quan hệ cha con (huyết thống) theo quy định tại Điều 14 Thông tư 04/2020/TT-BTP, do đó đã phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con chưa thành niên ngay cả khi hai anh chị không đăng ký kết hôn.
Đồng thời, căn cứ khoản 1 Điều 14, Điều 15 và khoản 1 Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình 2014, chị Cúc là mẹ của đứa trẻ và hiện là người đang trực tiếp nuôi con một mình, do đó chị hoàn toàn có quyền yêu cầu bạn trai cũ là cha của con thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định để đảm bảo việc nuôi dưỡng, học tập và phát triển toàn diện của con.
Chị Cúc và bạn trai cũ có thể tự thương lượng, thỏa thuận để thống nhất mức cấp dưỡng phù hợp, bao gồm các chi phí nuôi dưỡng và học tập của con. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người cha và nhu cầu thiết yếu của con, nhưng không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi bạn trai cũ chị đang cư trú cho mỗi tháng đối với con. (theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP)
Thứ hai, thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con chung
Căn cứ Điều 82, 83, 107, 110 Luật Hôn nhân gia đình 2014; khoản 4 Điều 7 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP thì nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con chưa thành niên được phát sinh kể từ thời điểm cha, mẹ không sống chung với con cho tới thời điểm con đã thành niên, tức từ đủ 18 tuổi. Nếu bên có nghĩa vụ chưa thực hiện, thì người trực tiếp nuôi dưỡng con có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán một phần chi phí nuôi con trong khoảng thời gian họ đã phát sinh nghĩa vụ nhưng chưa thực hiện việc cấp dưỡng (tham khảo Án lệ số 62/2023/AL về thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên trong vụ án tranh chấp về xác định cha cho con). Điều này vừa nhằm đảm bảo sự công bằng đối với người trực tiếp gánh vác trách nhiệm nuôi con, vừa nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em – đối tượng dễ bị tổn thương và cần được ưu tiên theo quy định của pháp luật.
Theo thông tin được cung cấp, thì chị Cúc đã một mình chăm sóc, nuôi dưỡng và chi trả các khoản chi phí nuôi con kể từ thời điểm con được sinh ra. Vì vậy, bạn trai cũ của chị có nghĩa vụ bắt đầu thực hiện việc cấp dưỡng cho con chung kể từ thời điểm này. Tuy nhiên, cho tới hiện tại, bạn trai cũ của chị vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nói trên, do đó chị Cúc hoàn toàn có quyền yêu cầu bạn trai cũ thanh toán một phần chi phí nuôi con trong khoảng thời gian trước đây, đồng thời thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho tới thời điểm con chung trưởng thành.
Thứ ba, chế tài khi không thực hiện đúng nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con chung?
Nếu bạn trai cũ của chị cố tình không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nói trên, thì tùy vào mức độ, tính chất của hành vi mà có thể bị xử phạt hành chính hoặc thậm chí là bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể:
Căn cứ Điều 21 Nghị định 130/2021/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em thì hành vi vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng có thể bị xử phạt hành chính lên đến 15 triệu đồng.
Điều 21. Vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em
1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em trừ trường hợp bị buộc phải tạm thời cách ly trẻ em hoặc trẻ em được chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật;
b) Cha mẹ, người chăm sóc trẻ em không quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em hoặc bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, cắt đứt quan hệ tình cảm và vật chất với trẻ em hoặc ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, trừ trường hợp bị buộc phải tạm thời cách ly trẻ em hoặc trẻ em được chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, nếu cha mẹ có hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con thì có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự lên đến 02 năm tù.
Điều 186. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Việc pháp luật có những chế tài nghiêm khắc dành cho hành vi trốn tránh cấp dưỡng của người có nghĩa vụ cho thấy vấn đề này không chỉ dừng lại ở khía cạnh đạo đức và lương tâm của người làm cha, làm mẹ mà còn là trách nhiệm pháp lý của cá nhân với cá nhân, thậm chí là trách nhiệm đối với nhà nước và cả xã hội. Do đó, các bậc cha mẹ – đặc biệt là người đang trực tiếp nuôi con – nên chủ động tìm hiểu và nắm bắt các quyền và lợi ích hợp pháp, không chỉ của mình mà cả của con, nhằm kịp thời yêu cầu những sự hỗ trợ cần thiết để đảm bảo được cuộc sống ổn định và phát triển tốt nhất cho con trẻ.
Chuyên mục này có sự hợp tác về chuyên môn của Văn phòng Luật sư Phong & Partners. Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn: 0236.3822678 - 0905.102425