Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên: Bảo vệ như một 'di sản sống'
Những ngày qua, tại Phố núi Pleiku đã diễn ra chuỗi hoạt động kỷ niệm 15 năm 'Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên' được UNESCO trao cho danh hiệu cao quý: Kiệt tác di sản truyền khẩu phi vật thể đại diện của nhân loại (25/11/2005-25/11/2020). Các hoạt động kỷ niệm cho thấy Gia Lai và các tỉnh Tây Nguyên đã có nhiều nỗ lực gìn giữ, phát huy giá trị của di sản văn hóa cồng chiêng theo tinh thần chương trình hành động cam kết.
Nỗ lực bảo tồn, phát huy di sản
Kể từ khi đón nhận danh hiệu, di sản văn hóa cồng chiêng đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia để trở thành tài sản của nhân loại. Nhiều giải pháp, chương trình hành động được Chính phủ, tỉnh Gia Lai triển khai để thực hiện nhiệm vụ bảo tồn, gìn giữ và phát huy; đặc biệt là các sự kiện tôn vinh di sản cồng chiêng mang tầm quốc tế và khu vực. Gia Lai cũng là địa phương đang lưu giữ số lượng cồng chiêng nhiều nhất trong 5 tỉnh Tây Nguyên.
Để có cơ sở đánh giá thực trạng, tỉnh đã tổ chức 2 cuộc kiểm kê quy mô lớn vào năm 2008 và năm 2020 về hiện trạng sử dụng cồng chiêng trong cộng đồng. Thạc sĩ Nguyễn Quang Tuệ-Trưởng phòng Quản lý Di sản (Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch) cho biết, đây là cơ sở tin cậy để có chính sách bảo vệ, phát huy giá trị của di sản đúng hướng. Cuộc tổng kiểm kê có quy mô nhất từ trước đến nay do Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch triển khai năm 2020 ghi nhận nhiều hình thức sáng tạo mới của chủ nhân di sản, đó là xuất hiện loại chiêng làm từ vỏ thùng phuy ở huyện Krông Pa.
Ngoài những đội chiêng truyền thống, các địa phương ở Đông Trường Sơn như Kông Chro, Đak Pơ, Kbang, An Khê xuất hiện hàng trăm đội chiêng nữ, phá vỡ quan niệm lâu đời về vai trò của nữ giới đối với cồng chiêng. Từ nhu cầu thực tại trong đời sống văn hóa tinh thần, những chủ nhân di sản đã viết tiếp một chương mới cho câu chuyện bảo tồn di sản cồng chiêng trong đời sống đương đại.
Thạc sĩ Nguyễn Quang Tuệ cho rằng: “Nó không chỉ cho thấy cồng chiêng đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ về công năng mà còn khẳng định niềm đam mê trình tấu loại nhạc cụ này của những người trẻ tuổi là bất tận. Được sự quan tâm không chỉ của người trong nước mà còn của cộng đồng quốc tế, những chủ thể của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã biết mình phải làm gì để bảo tồn và phát huy di sản quý báu do cha ông truyền lại”.
Phát biểu tại lễ kỷ niệm 15 năm di sản cồng chiêng được trao tặng danh hiệu cao quý này, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kpă Thuyên khẳng định: “15 năm qua, chúng ta đã tiến những bước vững chắc trên con đường bảo tồn và phát huy các giá trị hiện hữu của không gian văn hóa cồng chiêng. Quan trọng nhất là các cộng đồng dân cư vẫn giữ được không gian, môi trường sống động của cồng chiêng. Tỉnh ta tự hào khi có hàng ngàn nghệ nhân đánh chiêng giỏi, đặc biệt là các nghệ nhân chỉnh chiêng tài hoa, điêu luyện. Đó là vốn quý mà không phải nơi nào cũng có được”.
Biến di sản thành tài sản
Bảo vệ không gian văn hóa cồng chiêng trong bối cảnh đương đại là nhiệm vụ nặng nề, phức tạp và cấp bách. Những đóng góp của các nhà khoa học, nghiên cứu văn hóa trong Hội thảo quốc tế với chủ đề “Sự thay đổi đời sống kinh tế-xã hội và bảo tồn văn hóa cồng chiêng ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á” (năm 2009) và gần đây nhất là hội thảo “Bảo vệ và phát huy giá trị không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” (năm 2018) đặt ra nhiều giải pháp bảo tồn di sản giá trị.
Trong đó, quan điểm, mục tiêu biến di sản thành tài sản để người dân được hưởng lợi là quan điểm bảo tồn bền vững nhận được sự đồng tình của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Lý do là vì bảo tồn chỉ dựa trên nguồn vốn ít ỏi của nhà nước chỉ như “muối bỏ biển”; ngược lại, khi di sản đem lại lợi ích vật chất và tinh thần thiết thực cho cộng đồng, người dân sẽ tự giác chung tay bảo vệ, phát huy mà không cần hô hào, vận động.
Những năm gần đây, tỉnh ta đã chú trọng khai thác các yếu tố của không gian văn hóa cồng chiêng để phát triển du lịch như xây dựng các sản phẩm du lịch cộng đồng; kết hợp lễ hội với các di sản thiên nhiên như lễ hội hoa dã quỳ-núi lửa Chư Đang Ya, lễ hội cỏ hồng gắn với ngày hội văn hóa-thể thao các dân tộc, hội đua thuyền độc mộc trên sông Pô Cô gắn với liên hoan văn hóa cồng chiêng…
Các tour du lịch kích cầu mà tỉnh đã và đang triển khai, giới thiệu với các địa phương trong cả nước thời gian qua cũng dựa trên thế mạnh về di sản văn hóa, thiên nhiên. Đây là hướng đi mới mẻ, giúp chủ nhân di sản vừa bảo tồn văn hóa gắn với phát triển du lịch dịch vụ, xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững.
Chị Đinh Thị Sơm-hướng dẫn viên Làng du lịch cộng đồng Mơ Hra (xã Kông Lơng Khơng, huyện Kbang) chia sẻ: “Thời gian qua, làng đã đón một số đoàn khách, người dân phân công nhiệm vụ để đón tiếp và có thêm thêm thu nhập từ hoạt động này. Du khách đến làng rất thích ẩm thực truyền thống do bà con tự làm, xem và trải nghiệm các nghề truyền thống như đan gùi, dệt thổ cẩm, xem trình diễn cồng chiêng, múa xoang, lửa trại trước sân nhà rông...”.
Từ kinh nghiệm triển khai các mô hình du lịch dựa vào di sản, ông Đào Xuân Mùi-chuyên gia cao cấp của Viện Nghiên cứu và Phát triển ngành nghề nông thôn Việt Nam (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết: “Phải làm cho người dân hiểu rằng, giữ cho bằng được bản sắc văn hóa đó mới chính là gốc rễ, là vốn quý, mới biến di sản văn hóa cồng chiêng thành tài sản để khai thác du lịch, dịch vụ. Khi người dân được hưởng lợi từ di sản thì chính hoạt động du lịch sẽ là nguồn lực bền vững để hỗ trợ cho công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa được thăng hoa, rực rỡ và di sản do vậy, cũng thích ứng với đời sống đương đại”.
Ông Nguyễn Đức Hoàng-Phó Giám đốc Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch: “Chúng ta đang dựa vào di sản để đẩy mạnh phát triển du lịch, nhất là loại hình du lịch cộng đồng. Từ loại hình này sẽ mở rộng không gian du lịch đến các tuyến, điểm khác, thu hút được cộng đồng tham gia nếu giúp họ thấy được lợi ích. Theo cách đó, phát triển du lịch với bảo tồn các giá trị văn hóa sẽ mang lại lợi ích song song”.