Khung tiêu chí kinh tế tuần hoàn quản lý chất thải rắn: Cơ hội phát triển công nghiệp tái chế, năng lượng tái tạo
Việt Nam hướng tới nền kinh tế tuần hoàn, trong đó chất thải được tái sử dụng, tái chế hoặc chuyển đổi thành năng lượng, góp phần bảo đảm an ninh tài nguyên, giảm phát thải khí nhà kính và gia tăng giá trị kinh tế. Đây là bước đi chiến lược để Việt Nam hội nhập vào chuỗi giá trị xanh toàn cầu và hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng không vào năm 2050...

Khung tiêu chí kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải rắn nhằm kết nối phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, biến chất thải thành nguồn nguyên liệu tiềm năng.
Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn trong quản lý chất thải rắn. Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu xây dựng hệ thống sản xuất và tiêu dùng bền vững, giảm phát sinh chất thải và hạn chế tác động đến môi trường. Khung tiêu chí kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải rắn được xây dựng nhằm kết nối phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, biến chất thải thành nguồn nguyên liệu tiềm năng có thể quay trởi lại chu trình sản xuất.
ÁP LỰC CHẤT THẢI RẮN VÀ HÀNH LANG PHÁP LÝ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TUẦN HOÀN
Tính đến ngày 30/6/2025, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên cả nước đạt khoảng 69,4 nghìn tấn/ngày, trong đó 91% đã được xử lý. Năm 2024, tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đạt 97,26%, tỷ lệ chôn lấp giảm còn 64%, trong khi chất thải nguy hại được xử lý đạt mức cao 98,06%.
Cả nước hiện có 7 nhà máy đốt rác phát điện đi vào vận hành và nhiều khu liên hợp xử lý chất thải quy mô lớn tại Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh và các địa phương. Riêng Hà Nội phát sinh khoảng 7.300 tấn/ngày, TP.Hồ Chí Minh gần 14.000 tấn/ngày, chiếm 23% lượng rác cả nước.
Trong xử lý nước thải, 94,1% khu công nghiệp đã có hệ thống xử lý tập trung, tăng 3,4% so với giai đoạn trước; 31,5% cụm công nghiệp và 16,6% làng nghề đã đầu tư hệ thống đạt chuẩn, góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát ô nhiễm.

TS Nguyễn Đình Thọ phát biểu tại một tọa đàm mới đây về các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
Ở cấp địa phương, các chính sách tài chính cụ thể đang được xây dựng nhằm hiện thực hóa khung pháp lý. Hà Nội đang lấy ý kiến về dự thảo tăng giá dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Theo phương án đề xuất, Hà Nội dự kiến điều chỉnh giá dịch vụ rác thải theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả phí”. Từ năm 2025, phí thu gom rác ở các phường được đề xuất tăng từ 6.000 đồng lên 21.000 đồng/người/tháng và 43.000 đồng vào năm 2026; tại các xã lần lượt 10.000 đồng năm 2025 và 23.000 đồng năm 2026. Với cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức thu áp dụng theo đơn giá 1.175 đồng/kg rác thực tế.
Khung pháp lý về kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt đã được hình thành với nhiều văn bản quan trọng. Hệ thống pháp luật hiện hành, gồm Luật Bảo vệ môi trường 2020, Luật Tài nguyên nước 2023, Nghị định 08/2022/NĐ-CP và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã xác lập nguyên tắc và mục tiêu tổng thể nhằm giảm phát sinh chất thải, kéo dài vòng đời sản phẩm và thúc đẩy tái chế, tái sử dụng.
Chính phủ đặt yêu cầu phát triển mô hình quản lý chất thải theo hướng kinh tế tuần hoàn với mục tiêu đến năm 2025, khoảng 90% chất thải rắn sinh hoạt được xử lý hợp vệ sinh, tỷ lệ chôn lấp giảm xuống còn 30%, đồng thời thúc đẩy phân loại tại nguồn, phát triển công nghiệp tái chế và năng lượng từ rác.

Tính đến ngày 30/6/2025, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên cả nước đạt khoảng 69,4 nghìn tấn/ngày.
Đặc biệt, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035 được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định 222/QĐ-TTg/2025 xác định mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu đạt các chỉ tiêu quan trọng về hiệu quả tài nguyên và năng lượng. Công suất điện từ sinh khối và chất thải rắn dự kiến đạt 2.270 MW, chiếm 1,5% tổng công suất điện quốc gia. Năng lượng tái tạo đóng góp khoảng 47% trong tổng năng lượng sơ cấp, trong khi mức tiết kiệm năng lượng toàn quốc đạt 8-10%.
Các mục tiêu về quản lý chất thải đặt ra tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị đạt 95% và ở nông thôn đạt 80%. Tỷ lệ chất thải rắn được chôn lấp trực tiếp giảm xuống dưới 50% và trên 70% lượng nước thải từ các cơ sở sản xuất, dịch vụ được xử lý đạt chuẩn trước khi xả thải. Bên cạnh đó, cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP giảm tối thiểu 15% so với năm 2014…
NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG KHUNG TIÊU CHÍ KINH TẾ TUẦN HOÀN
Các nguyên tắc chung về kinh tế tuần hoàn được quy định tại Điều 138, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường nhấn mạnh giảm khai thác tài nguyên không tái tạo, kéo dài vòng đời vật liệu, ưu tiên tái chế và thu hồi năng lượng, hạn chế tối đa tác động tiêu cực đến môi trường.
Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt đòi hỏi một khung tiêu chí rõ ràng. Khung tiêu chí kinh tế tuần hoàn được xây dựng dựa trên các nguyên tắc pháp lý và mục tiêu tổng thể nhằm giảm phát sinh chất thải, kéo dài vòng đời sản phẩm và thúc đẩy tái chế, tái sử dụng.
Tiêu chí quan trọng trong khung kinh tế tuần hoàn tập trung vào giảm khai thác tài nguyên và nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu. Việc cắt giảm sử dụng tài nguyên không tái tạo như than đá, dầu mỏ hay khoáng sản giúp giảm áp lực khai thác và hạn chế phát thải khí nhà kính. Các doanh nghiệp được khuyến khích áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, sử dụng nguyên liệu thứ cấp thay cho nguyên liệu nguyên sinh.

Khu vực thu gom rác thải điện tử.
Chính phủ định hướng phát triển các khu công nghiệp sinh thái, nơi chất thải của doanh nghiệp này trở thành nguyên liệu cho doanh nghiệp khác, tạo chu trình khép kín, giảm lượng chất thải và nâng cao năng lực cạnh tranh. Kéo dài vòng đời sản phẩm, thiết bị và vật liệu giúp hỗ trợ đổi mới công nghệ, khuyến khích sửa chữa, tái chế và tái sản xuất, nhằm giảm tốc độ thải bỏ. Sản phẩm được thiết kế dễ tháo rời, dễ tái chế và có tuổi thọ cao. Các ngành như điện tử, xe máy, ô tô, nhựa và bao bì được ưu tiên áp dụng mô hình.
Doanh nghiệp sản xuất có trách nhiệm mở rộng (EPR) đối với bao bì, pin, ắc quy, thiết bị điện tử, buộc phải thu hồi và tái chế theo tỷ lệ được quy định. Đây là công cụ kinh tế và pháp lý mạnh mẽ để hiện thực hóa mục tiêu tuần hoàn tài nguyên nhằm hạn chế chất thải và tác động môi trường. Quản lý chất thải rắn theo mô hình tuần hoàn không dừng ở khâu xử lý cuối cùng mà tập trung kiểm soát từ khâu thiết kế sản phẩm, lựa chọn nguyên liệu đến tiêu dùng và tái chế.
Cùng với đó, việc giảm sản phẩm dùng một lần, hạn chế nhựa khó phân hủy và tăng tỷ lệ phân loại chất thải tại nguồn là những chỉ số quan trọng để đánh giá hiệu quả. Chính phủ đã ban hành lộ trình loại bỏ túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần tại siêu thị, trung tâm thương mại. Tại các đô thị như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, mô hình phân loại rác tại nguồn đang được thí điểm nhằm mở rộng toàn quốc sau năm 2025.
Thực tế, nhiều mô hình, kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là Hàn Quốc, quốc gia đã chuyển đổi thành công từ mô hình quản lý chất thải tuyến tính sang xã hội tuần hoàn tài nguyên. Hàn Quốc ban hành Luật khung về tuần hoàn tài nguyên từ năm 2018, quy định rõ tiêu chí công nhận tài nguyên tuần hoàn, triển khai hệ thống quản lý hiệu quả tuần hoàn tài nguyên và áp dụng cơ chế phí rác thải dựa trên khối lượng. Mô hình phí theo khối lượng khuyến khích người dân giảm phát sinh rác, tăng cường phân loại và tái chế. Việt Nam có thể áp dụng cơ chế này theo từng giai đoạn, phù hợp điều kiện thu nhập và hạ tầng quản lý rác các địa phương.
Khung tiêu chí này cũng nhấn mạnh vai trò của công nghệ trong tăng cường giám sát, thu gom và xử lý chất thải. Hệ thống quản lý rác thải thông minh có thể theo dõi khối lượng, thành phần và hành trình vận chuyển rác, giảm tình trạng đổ trộm và nâng cao tính minh bạch. Công nghệ đốt rác phát điện, sản xuất phân compost, công nghệ RDF và biogas được triển khai nhằm tận dụng tối đa giá trị năng lượng và vật chất trong chất thải. Sự kết hợp công nghệ cao với hệ thống phân loại tại nguồn tạo nên chuỗi giá trị khép kín, góp phần giảm chi phí xử lý và hạn chế tác động môi trường.
Khuyến khích chuyển đổi văn hóa tiêu dùng theo hướng bền vững, người dân cần thay đổi thói quen tiêu dùng ngắn hạn, hướng đến tiêu dùng xanh, ưu tiên sản phẩm tái chế, tái sử dụng và có nhãn sinh thái. Doanh nghiệp và người dân có vai trò đồng hành, bởi thành công của mô hình này không chỉ phụ thuộc vào công nghệ mà còn ở mức độ thay đổi hành vi xã hội.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG, TẠO CƠ HỘI PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TÁI CHẾ, NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO
Khung tiêu chí quản lý chất thải rắn đặt ưu tiên cao nhất ở giai đoạn phát sinh, bởi đây là điểm khởi đầu quyết định khối lượng, thành phần và mức độ ảnh hưởng của chất thải đến môi trường. Đối với nhà sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, tiêu chí cốt lõi nằm ở thiết kế bền vững, tức là thiết kế sản phẩm dễ tháo dỡ, dễ sửa chữa, dễ nâng cấp và dễ tái chế. Tư duy này giúp giảm gánh nặng cho các khâu xử lý về sau, đồng thời tạo nền tảng cho mô hình sản xuất tuần hoàn. Các doanh nghiệp cần áp dụng sản xuất sạch hơn, ưu tiên nguyên liệu tái chế, giảm tối đa phụ thuộc vào tài nguyên sơ cấp.
Điều 139 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP đã nhấn mạnh trách nhiệm của cơ sở sản xuất trong việc triển khai các biện pháp này, coi đây là một yêu cầu pháp lý chứ không chỉ là lựa chọn tự nguyện.
Điều 138 Nghị định cũng nêu rõ định hướng giảm dần, tiến tới loại bỏ sản phẩm không thân thiện, đồng thời khuyến khích phát triển bao bì sinh học, bao bì có thể tái sử dụng. Đối với khối doanh nghiệp sản xuất, tối ưu hóa quy trình nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu, vật liệu và năng lượng không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn trực tiếp giảm phát sinh chất thải…

Khung tiêu chí kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải rắn tại Việt Nam tạo ra cơ hội phát triển ngành công nghiệp tái chế, dịch vụ môi trường.
Kéo dài vòng đời sản phẩm là giai đoạn trọng tâm nhằm duy trì giá trị vật liệu trong nền kinh tế. Các tiêu chí cụ thể bao gồm tái sử dụng, sửa chữa, bảo trì, tân trang và tái sản xuất. Tái sử dụng là phương án đơn giản nhất, khi sản phẩm hoặc vật dụng được chuyển từ người dùng này sang người dùng khác mà vẫn giữ nguyên mục đích ban đầu. Điều này giúp tiết kiệm tài nguyên, giảm nhu cầu sản xuất mới.
Tân trang và tái sản xuất là bước nâng cao, khi sản phẩm cũ được phục hồi, nâng cấp hoặc các linh kiện được tái sử dụng để lắp ráp sản phẩm mới có cùng chức năng. Điều 138 Nghị định 08/2022 đã xác định đây là định hướng cần khuyến khích nhằm xây dựng ngành công nghiệp tái sản xuất, giảm áp lực khai thác tài nguyên.
Khung tiêu chí cũng nhấn mạnh đến phân loại tại nguồn và hạ tầng thu gom. Phân loại tại nguồn là nguyên tắc bắt buộc để tách riêng chất thải tái chế, chất thải hữu cơ, chất thải nguy hại và chất thải còn lại. Quyết định 21/2025/QĐ-TTg đã đưa ra quy định chi tiết, coi đây là bước khởi đầu cho toàn bộ chuỗi tái chế và xử lý. Nếu không có phân loại từ đầu, các khâu tiếp theo sẽ khó đảm bảo hiệu quả, chi phí tăng cao và rủi ro ô nhiễm môi trường lớn hơn.
Giai đoạn xử lý, tái chế và thu hồi giá trị từ chất thải giúp giảm khối lượng chất thải cuối cùng đưa đi chôn lấp. Tiêu chí ưu tiên đặt vào tái chế chất thải, tức là xử lý và chế biến chất thải để chuyển hóa thành nguyên liệu, nhiên liệu hoặc vật liệu có ích. Điều 138 Nghị định 08/2022 đã khẳng định tái chế là hoạt động cần được thúc đẩy, đặc biệt trong các ngành giấy, nhựa, kim loại và thủy tinh.
Thu hồi năng lượng là hướng đi có giá trị, khi chất thải rắn sinh hoạt hoặc công nghiệp thông thường được sử dụng để sản xuất điện hoặc nhiệt. Đây là giải pháp vừa xử lý chất thải vừa cung cấp năng lượng thay thế cho nhiên liệu hóa thạch. Quyết định 21/2025/QĐ-TTg khuyến khích phát triển các dự án đốt rác phát điện, nhưng yêu cầu công nghệ phải đáp ứng tiêu chuẩn môi trường và tiêu chí hiện có tốt nhất theo lộ trình Chính phủ đề ra.
Khung tiêu chí cũng nhấn mạnh nguyên tắc ưu tiên: chỉ chôn lấp những loại chất thải không thể tái sử dụng, tái chế hoặc thu hồi năng lượng. Điều này buộc hệ thống quản lý phải vận hành hiệu quả ở các khâu trước, tránh tình trạng đổ dồn áp lực vào chôn lấp.
Giai đoạn giám sát và hoàn nguyên trong vòng đời chất thải rắn cũng rất quan trọng. Khung tiêu chí tập trung vào trách nhiệm theo dõi, kiểm soát tác động lâu dài của các cơ sở xử lý, đặc biệt là bãi chôn lấp. Hệ thống quan trắc tự động phải được lắp đặt để theo dõi khí phát sinh, nước rỉ rác, độ lún bãi và chất lượng môi trường xung quanh.
Hoàn nguyên môi trường cũng là tiêu chí bắt buộc sau khi bãi chôn lấp hoặc cơ sở xử lý kết thúc hoạt động. Trách nhiệm hoàn nguyên thuộc về đơn vị vận hành, đồng thời phải ký quỹ bảo đảm ngay từ đầu để thực hiện khi kết thúc vòng đời dự án.
Khung tiêu chí ở giai đoạn này còn mở rộng sang trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Các doanh nghiệp phải tham gia hệ thống tái chế, xử lý chất thải do sản phẩm của mình gây ra, đóng góp tài chính hoặc trực tiếp tổ chức thu hồi. Mô hình này bảo đảm tính công bằng, khi trách nhiệm không chỉ dồn lên cơ quan nhà nước hay người dân, mà được chia sẻ theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả chi phí”.
Khung tiêu chí kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải rắn tại Việt Nam không chỉ giúp giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường mà còn tạo ra cơ hội phát triển ngành công nghiệp tái chế, năng lượng tái tạo và dịch vụ môi trường. Kết hợp giữa chính sách pháp luật, công cụ kinh tế, công nghệ hiện đại và thay đổi hành vi xã hội tạo nền tảng để chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững.
(*) PGS.TS. Nguyễn Đình Thọ, Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường.
TS. Hong Sang Kim, Viện Kinh tế Nông thôn Hàn Quốc.