Kinh tế biển: Động lực mới cho tăng trưởng xanh và phát triển bền vững
TS. Tạ Đình Thi nhấn mạnh, kinh tế biển xanh phải thực sự trở thành đột phá chiến lược, gắn với khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, môi trường và quốc phòng, an ninh.
Biển là không gian sinh tồn, là động lực phát triển quốc gia
Thảo luận tại Tổ về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026 vào sáng ngày 21/10, TS. Tạ Đình Thi – Đại biểu Quốc hội, đoàn TP. Hà Nội khẳng định: “Báo cáo của Chính phủ rất toàn diện, đầy đủ và có tính truyền cảm hứng mạnh mẽ, thể hiện khát vọng của đất nước, vươn tới những mục tiêu lớn như ‘Vươn ra biển lớn’, ‘Tiến sâu vào lòng đất’, ‘Bay cao lên vũ trụ’. Tuy nhiên, đóng góp vào quá trình phát triển bền vững đó thì kinh tế biển cần được quan tâm đầy đủ và toàn diện hơn nữa”.
Theo đại biểu Tạ Đình Thi, biển không chỉ là không gian sinh tồn, mà còn là một trong những động lực quan trọng giúp nền kinh tế Việt Nam “đủ sức chống chịu”, duy trì tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu khu vực và thế giới trong trước mắt cũng như về lâu dài.

Đại biểu Tạ Đình Thi - Đoàn TP Hà Nội.
Trong nhiệm kỳ 2021 – 2025, kinh tế biển Việt Nam ghi nhận nhiều thành tựu đáng tự hào, cụ thể: Thứ nhất, về hạ tầng kết nối, cả nước đã hoàn thành hơn 1.700 km đường ven biển, vượt mục tiêu đề ra; nâng cấp các cảng cửa ngõ quốc tế như Lạch Huyện, Cái Mép – Thị Vải. Mạng lưới hạ tầng chiến lược này đã mở ra không gian phát triển mới cho các vùng duyên hải, tạo động lực lan tỏa cho toàn nền kinh tế.
Thứ hai, thương mại hàng hải tiếp tục là trụ cột của nền kinh tế mở. Năm 2025, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt kỷ lục 900 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia dẫn đầu thế giới. Xuất siêu đạt mức 88,3 tỷ USD, phần lớn nhờ năng lực logistics và hạ tầng cảng biển hiện đại, minh chứng cho vai trò huyết mạch của kinh tế hàng hải.
Thứ ba, du lịch biển phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch. Năm 2025, Việt Nam đón 22 - 23 triệu lượt khách quốc tế, cao nhất từ trước đến nay, thể hiện “sức bật kỳ diệu” của các vùng biển, đảo. Đây là nền tảng hình thành chuỗi giá trị du lịch biển bền vững, gắn kết kinh tế – văn hóa – môi trường.
Thứ tư, hội nhập quốc tế sâu rộng tạo cú hích cho kinh tế biển. Việc khai thác hiệu quả 17 Hiệp định thương mại tự do (FTA), cùng tiến trình đàm phán các FTA mới, đã mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời thu hút đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế biển công nghệ cao.
Theo đại biểu Tạ Đình Thi, bên cạnh những thành tựu, vẫn còn ba thách thức lớn cần được nhìn nhận nghiêm túc và có giải pháp căn cơ.
Một là, áp lực lên môi trường và tài nguyên biển. Tốc độ phát triển kinh tế nhanh cùng với tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, thời tiết cực đoan đã khiến nguồn lợi hải sản suy giảm, nhiều hệ sinh thái biển bị tổn thương, ảnh hưởng tiêu cực đến các thành tựu đạt được; đòi hỏi Việt Nam phải tăng cường năng lực giám sát, ứng phó và phục hồi hệ sinh thái biển, nâng cao khả năng chống chịu của hệ sinh thái tổng thể kinh tế - xã hội – môi trường.
Hai là, chưa khai thác hết tiềm năng của kinh tế biển xanh. Nền kinh tế biển vẫn dựa nhiều vào các ngành truyền thống như khai thác, vận tải, du lịch, trong khi các ngành mới, như năng lượng tái tạo ngoài khơi, công nghiệp sinh học biển, kinh tế số trên nền tảng đại dương chưa thực sự trở thành động lực chính.
Ba là, phát triển thiếu đồng bộ giữa hạ tầng, môi trường, văn hóa và an sinh xã hội. Ở nhiều khu vực ven biển, người dân vẫn chưa thực sự được thụ hưởng xứng đáng từ thành quả phát triển; trong khi đó, công tác tổ chức thực hiện quy hoạch không gian biển vẫn còn hạn chế, bất cập, chưa khắc phục được tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu liên kết.

Phát triển kinh tế biển xanh là xu thế tất yếu và là đột phá chiến lược của Việt Nam.
Từ thực tiễn đó, đại biểu nhấn mạnh: “Thời gian tới, phát triển kinh tế biển xanh là xu thế tất yếu và là đột phá chiến lược của Việt Nam. Tuy nhiên, muốn làm được, cần tháo gỡ ba điểm nghẽn lớn: Khung pháp lý, cơ chế điều phối quy hoạch và hệ thống dữ liệu biển quốc gia.”
Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là then chốt
Nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV và tổng kết Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, đại biểu Tạ Đình Thi cho rằng, đây là thời điểm cần bổ sung, cập nhật những định hướng mới để tạo đột phá trong phát triển các ngành kinh tế biển, nhất là năng lượng tái tạo, du lịch bền vững, kinh tế hàng hải và nuôi trồng biển công nghệ cao...
“Nghị quyết 36-NQ/TW của Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển vẫn là kim chỉ nam cho giai đoạn tới, cần được bổ sung những nội dung mới để phù hợp với bối cảnh chuyển dịch năng lượng và mục tiêu Net Zero 2050”- đại biểu nhấn mạnh.
Theo đại biểu, để phát triển bền vững kinh tế biển trong giai đoạn tới, chương trình hành động quốc gia cần được cụ thể hóa theo hướng trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào năm nhóm lĩnh vực chủ chốt gắn với định hướng của Nghị quyết 36-NQ/TW và mục tiêu Net Zero 2050.
Trước hết, cần phát triển các ngành kinh tế biển xanh, bền vững, coi đây là động lực tăng trưởng mới. Trong đó, năng lượng tái tạo biển phải được ưu tiên hàng đầu, với các cơ chế đặc thù, ưu đãi vượt trội để thu hút đầu tư vào điện gió ngoài khơi, đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm các dạng năng lượng mới như năng lượng sóng và thủy triều.
Bên cạnh đó, cần chuyển đổi mô hình du lịch biển từ đại trà sang du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và thể thao biển chất lượng cao, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên và gìn giữ bản sắc văn hóa biển.
“Kinh tế hàng hải xanh cũng phải được chú trọng, thông qua việc đầu tư phát triển hệ thống cảng xanh, vận tải sạch và logistics tuần hoàn, hướng tới mục tiêu giảm phát thải và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế”- đại biểu nói.
Bên cạnh đó, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cần được xác định là trụ cột then chốt để hiện thực hóa khát vọng quốc gia biển mạnh. Việt Nam phải đẩy mạnh nghiên cứu biển, ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI) trong công tác giám sát, dự báo, quản lý tài nguyên và môi trường biển. Cùng với đó, cần hình thành các viện nghiên cứu công nghệ sinh học biển, phát triển chương trình đào tạo kỹ sư công nghệ cao, phục vụ các lĩnh vực mũi nhọn như năng lượng tái tạo, hàng hải và công nghiệp sinh học biển.
Tiếp theo, nhiệm vụ bảo vệ môi trường và phục hồi hệ sinh thái biển cần được coi là yêu cầu nền tảng của mọi chính sách phát triển. Cần xây dựng và triển khai Đề án tổng thể về xử lý ô nhiễm biển, đặc biệt là rác thải nhựa đại dương, kết hợp các chương trình phục hồi rạn san hô và rừng ngập mặn – những “bức tường xanh” tự nhiên có vai trò phòng hộ, bảo vệ bờ biển và đa dạng sinh học.

Ngày 21/10 Quốc hội thảo luận tại tổ.
Đồng thời, phải phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao, coi con người là yếu tố trung tâm của mọi chiến lược phát triển.
Đại biểu cho rằng cần gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo đại học, nghề với nhu cầu thực tế của các ngành kinh tế biển, hướng tới mục tiêu đào tạo 100.000 kỹ sư công nghệ biển vào năm 2035, phục vụ cho các lĩnh vực năng lượng, hàng hải, logistics và nghiên cứu biển.
Cuối cùng, cần tăng cường hợp tác quốc tế, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh biển, đảo. Việt Nam phải chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn, tổ chức quốc tế về đại dương, tranh thủ tri thức, công nghệ và nguồn vốn xanh phục vụ phát triển bền vững. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển với củng cố thế trận quốc phòng – an ninh, giữ vững chủ quyền quốc gia và lợi ích chiến lược trên biển.
Đại biểu Tạ Đình Thi kiến nghị: Cần tiếp tục hoàn thiện nội dung phát triển bền vững kinh tế biển trong văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV; Chính phủ sớm cụ thể hóa và cập nhật Kế hoạch hành động quốc gia về phát triển bền vững kinh tế biển, xác định rõ dự án ưu tiên, nguồn lực và lộ trình khả thi. Song song, xây dựng cơ chế đặc thù để thu hút mạnh mẽ đầu tư tư nhân và FDI vào các lĩnh vực kinh tế biển xanh, công nghệ cao và đổi mới sáng tạo, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển – phát triển hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường./.