Kinh tế tư nhân đóng góp gần 50% GDP, vì sao vẫn khó tiếp cận vốn ngân hàng?
Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp gần 50% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, nhưng phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa (chiếm 98%), khả năng tiếp cận vốn ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế.
Sáng nay (21/3), tại Hà Nội, Thời báo Ngân hàng tổ chức Hội thảo “Vốn ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân”.
Khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của kinh tế tư nhân nhiều hạn chế
Tại hội thảo, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Hiện khu vực này đóng góp gần 50% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm khoảng 85% tổng số lao động trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa (chiếm 98%), khả năng tiếp cận vốn ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế. Với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), NHNN đã xác định là đối tượng ưu tiên cho vay với lãi suất ưu đãi khi cho vay ngắn hạn bằng VND thấp hơn các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường (hiện nay là 4%/năm).

Tại hội thảo, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
NHNN cũng yêu cầu các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, lành mạnh, hạn chế nợ xấu gia tăng và phát sinh; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực là động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Hiện tại, hoạt động cấp tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân tại các tổ chức tín dụng đạt khoảng 6,91 triệu tỷ đồng, tăng 14,72% so với năm 2023, chiếm khoảng 44% dư nợ tín dụng nền kinh tế.
Trong đó, có 100 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng đối với DNNVV với tổng dư nợ đạt 2,74 triệu tỷ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2023, chiếm 17,6% dư nợ nền kinh tế, có 208.992 DNNVV còn dư nợ. Điều này cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân, đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Theo Phó Thống đốc, mặc dù khu vực kinh tế tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ, nhưng các doanh nghiệp vẫn đối mặt với nhiều khó khăn. Phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, hạn chế về tiềm lực tài chính và khả năng cạnh tranh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Năm 2025 dự báo cho thấy tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, xung đột địa chính trị, căng thẳng thương mại gia tăng và chi phí vay cao ở nhiều quốc gia. Các khó khăn nêu trên sẽ tác động lớn đến nền kinh tế có độ mở lớn như nước ta, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân.
Minh bạch thông tin để doanh nghiệp dễ tiếp cận vốn ngân hàng
Nhấn mạnh tới tầm quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp, tạo ra hơn 60% việc làm và đóng góp đáng kể vào GDP, Chủ tịch Hãng kiểm toán ASCO Nguyễn Thanh Khiết cho rằng: Một trong những thách thức lớn nhất mà doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp phải là khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng. Các nguyên nhân chính bao gồm thiếu tài sản đảm bảo, hồ sơ tài chính chưa minh bạch… Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần triển khai các giải pháp đồng bộ từ phía ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.
Theo vị chuyên gia này, doanh nghiệp cần nâng cao năng lực quản trị, năng lực tài chính và minh bạch thông tin; Xây dựng, cải thiện hệ thống quản trị doanh nghiệp, áp dụng công nghệ và AI trong kế toán và quản lý tài chính, các lĩnh vực tác nghiệp khác. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần xây dựng báo cáo tài chính minh bạch, có kiểm toán độc lập để tạo niềm tin với ngân hàng. Chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh đồng bộ với các kế hoạch tác nghiệp khác và phương án sử dụng vốn hiệu quả để thuyết phục ngân hàng.

Các diễn giả tham dự hội thảo.
Cùng với đó, các ngân hàng nên thiết kế các sản phẩm tài chính chuyên biệt như khoản vay tín chấp dựa trên dòng tiền kinh doanh, khoản vay theo hợp đồng đầu ra hoặc khoản vay dựa trên tài sản hình thành từ vốn vay. Ngoài ra, cần mở rộng mô hình đánh giá tín dụng dựa trên dữ liệu giao dịch thực tế của doanh nghiệp thay vì chỉ tập trung vào tài sản đảm bảo.
Cải tiến quy trình thẩm định tín dụng theo hướng đơn giản, minh bạch và rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ: Áp dụng mô hình thẩm định tín dụng theo rủi ro, kết hợp đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp bằng các tiêu chí linh hoạt, giảm bớt yêu cầu giấy tờ không cần thiết và tự động hóa một số bước xét duyệt để tăng tốc độ giải ngân.
Ứng dụng công nghệ tài chính (Fintech) vào đánh giá tín dụng: Ngân hàng có thể tận dụng dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI) để đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp dựa trên dữ liệu giao dịch, hóa đơn điện tử và lịch sử thanh toán. Điều này giúp tăng tính chính xác trong quyết định tín dụng và rút ngắn thời gian duyệt vay, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn nhanh chóng.
Đồng thời, phát triển mạnh hệ thống quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm giảm bớt rủi ro cho ngân hàng và hỗ trợ doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo: Chính phủ và các tổ chức tài chính cần tăng cường vốn cho các quỹ bảo lãnh tín dụng, mở rộng phạm vi bảo lãnh để giúp nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Đồng thời, cần cải tiến quy trình bảo lãnh để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả, giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí khi tiếp cận vốn.
Thúc đẩy các mô hình tài chính thay thế để mở rộng kênh huy động vốn như thuê tài chính (Leasing), tín dụng chuỗi cung ứng: Các doanh nghiệp có thể vay dựa trên hợp đồng đầu vào, đầu ra, giúp họ duy trì hoạt động sản xuất mà không cần tài sản thế chấp; Crowdfunding (gọi vốn cộng đồng); P2P Lending (cho vay ngang hàng); Kết nối trực tiếp nhà đầu tư và doanh nghiệp, giảm bớt các yêu cầu khắt khe của ngân hàng và giúp doanh nghiệp nhỏ tiếp cận vốn dễ dàng hơn…
“Việc cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ phụ thuộc vào doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ từ ngân hàng, tổ chức tài chính và cơ quan quản lý nhà nước. Chúng ta cần chung tay triển khai các giải pháp đồng bộ để giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện phát triển bền vững, đóng góp nhiều hơn vào sự thịnh vượng của nền kinh tế Việt Nam”, ông Nguyễn Thanh Khiết nhấn mạnh.