Kỳ 2: Ngày càng có nhiều nước trên thế giới bỏ án tử hình

Theo thông tin từ Tổ chức Ân xá Quốc tế, tính đến năm 2024, có 144 quốc gia đã bãi bỏ án tử hình trên thực tế hoặc trong pháp luật. Trong đó, nhiều quốc gia từng có truyền thống pháp lý nghiêm khắc đã chuyển hướng mạnh mẽ …

Hoàn thiện pháp luật để đảm bảo tốt hơn quyền con người

Làn sóng phản đối phán quyết tử hình đối với Davis tại Paris, Pháp. (Ảnh: CNN)

Làn sóng phản đối phán quyết tử hình đối với Davis tại Paris, Pháp. (Ảnh: CNN)

Điều kiện để gia nhập Liên minh châu Âu (EU)

Hiện, châu Âu vẫn nỗ lực trong việc xóa bỏ án tử hình. Vào đầu những năm 1980, Hội đồng châu Âu đã trở thành tổ chức tiên phong trong việc xóa bỏ án tử hình, coi đây là sự vi phạm nghiêm trọng quyền con người, theo trang web của Hội đồng châu Âu.

Năm 1983, Hội đồng châu Âu đã thông qua công cụ pháp lý đầu tiên có hiệu lực ràng buộc quy định việc xóa bỏ hoàn toàn án tử hình trong thời bình: Nghị định thư số 6 của Công ước châu Âu về Nhân quyền (ECHR). Văn bản này hiện đã được toàn bộ 46 quốc gia thành viên phê chuẩn.

Năm 2002, Hội đồng châu Âu tiếp tục thông qua Nghị định thư số 13 bổ sung cho ECHR, quy định việc bãi bỏ án tử hình trong mọi hoàn cảnh, tức là cả trong thời chiến hoặc khi có nguy cơ chiến tranh cận kề. Nghị định thư này không cho phép có bất kỳ ngoại lệ hoặc biện pháp đình chỉ nào. Nghị định thư có hiệu lực từ ngày 1/7/2003. Tính đến nay, đã có 45 quốc gia thành viên ký và phê chuẩn văn bản này. Bãi bỏ án tử hình cũng là điều kiện để gia nhập Liên minh châu Âu (EU). Pháp là nước châu Âu đầu tiên đưa ra lý luận hiện đại về việc xóa bỏ án tử, chính thức bãi bỏ vào năm 1981.

Để gia nhập EU, Thổ Nhĩ Kỳ đã đình chỉ thi hành án tử hình vào năm 1984. Thổ Nhĩ Kỳ đã phê chuẩn Nghị định thư số 13 của Công ước châu Âu về Nhân quyền vào tháng 2/2006 đã bãi bỏ mọi bản án án tử hình. Các hình phạt hiện nay bao gồm: tù chung thân không ân xá (không có khả năng được phóng thích), tù chung thân có khả năng được phóng thích, phạt tù có thời hạn và tiền phạt. Tù chung thân không ân xá, được gọi là “tù chung thân tăng nặng” áp dụng cho những người bị kết án về các tội: chống lại loài người, giết người, sản xuất và buôn bán ma túy, tội chống lại an ninh quốc gia và tội chống lại trật tự hiến pháp.

Canada bãi bỏ tử hình năm 1976, sau hàng loạt vụ án oan nghiêm trọng. Quốc hội kết luận: “Không có bằng chứng cho thấy tử hình ngăn ngừa tội phạm tốt hơn các hình phạt khác”.

Trong khi đó, Theo Tòa án tối cao Nhật, việc lựa chọn hình phạt tử hình của tòa án "chỉ nên trong những trường hợp cực kỳ nghiêm trọng khi không có hình phạt nào khác…”. Nhật quy định rằng, những tội phạm mà hình phạt là tử hình cũng có thể xem xét xử tù chung thân.

Tại châu Á, Philippines là quốc gia đầu tiên bãi bỏ án tử hình vào năm 1987. Hình phạt này được áp dụng lại vào năm 1993 và sau đó lại bị bãi bỏ vào năm 2006. Hiến pháp năm 1987 của Philippines quy định: nghiêm cấm việc áp dụng “phạt quá mức”, hình phạt tàn ác, hạ nhục hoặc vô nhân đạo và tử hình “trừ khi vì những lý do thuyết phục liên quan đến những tội ác tày trời, quốc hội sẽ quy định cụ thể”.

Quy định này (Điều 19) cũng giảm tử hình xuống thành “phạt tù dài hạn” đối với người đã bị kết án tử hình vào thời điểm đó. “Phạt tù dài hạn” được quy định trong Bộ luật Hình sự sửa đổi là phạt tù từ 20 đến 40 năm đối với các tội danh như giết người, cướp của giết người, hiếp dâm và giết người, và được áp dụng cùng với “hình phạt phụ”.

Rwanda sau diệt chủng năm 1994, quốc gia này vẫn giữ án tử trong thời gian dài. Tuy nhiên, để phục vụ quá trình hòa giải dân tộc và hợp tác quốc tế, Rwanda đã bãi bỏ án tử hình vào năm 2007, nhờ đó dẫn độ thành công nhiều tội phạm quốc tế.

Malaysia năm 2023, Malaysia thông qua đạo luật bãi bỏ án tử bắt buộc, cho phép thay thế bằng án tù. Bộ trưởng Tư pháp nước này cho biết: “Hình phạt không nên chỉ dựa vào sự trừng phạt mà còn cần hướng đến cải hóa con người".

Bãi bỏ tử hình không dẫn đến gia tăng tội phạm

Điểm chung của các quốc gia này là bãi bỏ tử hình không dẫn đến gia tăng tội phạm, ngược lại còn thúc đẩy cải cách tư pháp, tăng hiệu quả trong xử lý tội phạm xuyên quốc gia, và nâng cao hình ảnh quốc gia. Một lý do phổ biến để giữ án tử là khả năng răn đe. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu tội phạm học quốc tế cho thấy, không có bằng chứng nào chứng minh án tử hình hiệu quả hơn tù chung thân trong ngăn ngừa tội phạm. Đối với những người phạm tội vì tham vọng cá nhân, động cơ tài chính hoặc hành vi có tổ chức, sự mất tự do vĩnh viễn – sống phần đời còn lại trong trại giam cũng là hình phạt tột cùng về cả thể chất lẫn tinh thần. Sự “gặm nhấm” của lương tâm, sự cắt đứt với xã hội, gia đình... sẽ tác động mạnh hơn cả cái chết tức khắc. Đó là lý do mà nhiều nước vẫn duy trì mức phạt nghiêm khắc, nhưng dưới hình thức tù chung thân không giảm án như Đức, Na Uy.

Tại Mỹ - nơi vẫn duy trì án tử ở nhiều bang tính đến 2024, đã có gần 200 người bị kết án tử sau đó được minh oan. Đa số trong số đó được giải cứu nhờ công nghệ ADN hoặc lời khai mới. Nếu không có sự kiên trì của luật sư, nhà báo, tổ chức nhân quyền, họ đã trở thành nạn nhân oan uổng của hệ thống tư pháp. Một mạng người mất đi không thể lấy lại. Chính vì vậy, hình phạt cần tạo khả năng hồi cứu nếu có sai sót, điều mà tù chung thân có thể đảm bảo, còn tử hình thì không.

Với Việt Nam, biệc bãi bỏ án tử hình ở một số tội danh có thể giúp thuận lợi hơn trong hợp tác pháp lý với các quốc gia phát triển – nơi họ từ chối dẫn độ nếu người bị dẫn độ có nguy cơ bị tử hình. Điển hình là các quốc gia EU như Đức, Pháp, Thụy Điển đều từ chối bàn giao nghi phạm nếu đối mặt án tử. Một quốc gia như Việt Nam đang tăng cường truy bắt tội phạm xuyên biên giới, đặc biệt là các đối tượng tham nhũng bỏ trốn ra nước ngoài sẽ mở rộng được “cánh cửa dẫn độ” nếu giảm dần phạm vi áp dụng hình phạt tử hình. Hiện nay, đối với các tội về tham ô tài sản, nhận hối lộ và vận chuyển trái phép chất ma túy, nhiều nước trên thế giới đã yêu cầu Việt Nam phải cam kết không áp dụng hình phạt tử hình hoặc tuyên nhưng không thi hành án tử hình đối với những vụ án về tham nhũng, chức vụ, ma túy, nhưng Việt Nam chưa cam kết. Vì vậy, khi Việt Nam yêu cầu tương trợ tư pháp có liên quan đến án tử hình thì gần như không có phản hồi.

(Còn nữa)

Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: “Chúng ta cần hướng đến một nền tư pháp nhân đạo, lấy con người làm trung tâm.” Việc bỏ án tử hình thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc tôn trọng quyền sống - quyền thiêng liêng nhất của con người.Án tử hình, một khi được thi hành, không có khả năng sửa sai. Trong khi đó, các sai sót trong điều tra, truy tố, xét xử hoàn toàn có thể xảy ra dù hiếm nhưng hậu quả thì là vĩnh viễn. Với hình phạt tù chung thân không xét giảm án, nhà nước vẫn đảm bảo răn đe cao nhất, nhưng đồng thời mở ra cơ hội sửa sai nếu phát hiện oan sai.

Nhật Nam

Nguồn PL&XH: https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/ky-2-ngay-cang-co-nhieu-nuoc-tren-the-gioi-bo-an-tu-hinh-423125.html