Kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4): Kết tinh từ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
Việt Nam là một quốc gia thống nhất. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, dù có lúc đất nước bị chia ly, song xu thế chủ đạo vẫn là hòa hợp và thống nhất. Sau chiến thắng thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam ở cả 2 miền Nam - Bắc, cộng đồng người Việt Nam yêu nước ở nước ngoài lại phải trải qua cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ để đất nước thống nhất. Ngày 30-4-1975 là cột mốc vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đó là ngày thống nhất, hòa bình và đoàn tụ.
* Chiến thắng của lòng quả cảm và tinh thần anh dũng vô song
Tháng 4-2010, cuốn sách Bare Feet, Iron Will (Chân trần, chí thép) đã được Nhà xuất bản Fortis ấn hành tại Mỹ. Cuốn sách là kết quả của những cuộc gặp gỡ giữa tác giả James G.Zumwalt, vốn là một cựu trung tá thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, với người dân và các quân nhân Việt Nam sau chiến tranh.
Ngay khi ra đời, cuốn sách đã được độc giả Mỹ hào hứng đón nhận. Trên mạng bán sách trực tuyến Amazon, có độc giả để lại nhận xét về cuốn sách như sau: "Các nhà lãnh đạo trên thế giới, những người có thẩm quyền phát động chiến tranh, cần đọc cuốn sách của Zumwalt. Thông điệp ở đây là, chính quyết tâm của nhân dân và "quy mô" trái tim của họ, chứ không phải sức mạnh quân đội và quy mô của kho vũ khí quyết định chiến thắng".
Chính cuộc kháng chiến gian khổ, hy sinh và chịu nhiều mất mát của dân tộc Việt Nam đã chinh phục trái tim, khối óc của những con người yêu tự do và hòa bình trên thế giới và chiến thắng quân thù.
Trong cuộc xâm lược Việt Nam, Mỹ đã huy động một lực lượng khổng lồ quân số có lúc lên tới nửa triệu người. Tới ngày 31-3-1968, tổng quân số liên quân Hoa Kỳ và chế độ Sài Gòn lên tới gần 1,4 triệu. Để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã huy động 70% lục quân, 60% lính thủy đánh bộ, 40% hải quân và 60% không quân của nước Mỹ, 6,5 triệu lượt thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cùng với đó, 22 ngàn xí nghiệp trên đất Mỹ trực tiếp phục vụ cuộc chiến tranh này, đó là chưa kể quân đội các nước đồng minh của Mỹ.
Để đương đầu với đội quân xâm lược khổng lồ này, cả nước đã có gần 850 ngàn liệt sĩ hy sinh, gần 45 ngàn bà mẹ Việt Nam anh hùng. Nếu như trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, một cuộc chiến tranh được coi là tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại, mỗi người Đức phải chịu 27kg bom đạn và mỗi km2 chịu 5,4 tấn bom đạn; mỗi người Nhật chịu 1,6kg và mỗi km2 chịu 0,43 tấn bom đạn thì khi quân đội Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam, mỗi người dân miền Bắc phải chịu 45,5kg và mỗi km2 phải gánh chịu 6 tấn bom đạn.
* Chinh phục trái tim, khối óc của cộng đồng quốc tế
Trước tội ác của đế quốc Mỹ gây ra ở Việt Nam, khắp nơi trên thế giới đã nổ ra các phong trào, các cuộc biểu tình ủng hộ Việt Nam.
Đầu tháng 3-1968, Tổng thư ký Liên hợp quốc U.Thant kêu gọi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc và coi đây là điều kiện để tổ chức đàm phán. Ngày 14-5-1968, trong bài phát biểu tại Trường đại học Alberta (Canada), ngài U.Thant đã “tỏ rõ lập trường ủng hộ quan điểm của Việt Nam Dân chủ cộng hòa và kêu gọi Chính phủ Hoa Kỳ thực hiện một cuộc ngưng oanh tạc toàn diện vô điều kiện miền Bắc”.
Lãnh đạo nhiều nước trên thế giới bằng cách này hay cách khác bày tỏ sự ủng hộ đối với Việt Nam từ Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Tư, Algérie, Tanzania...
Nhà báo Pháp Madeleine Riffaud đã thốt lên một câu tự đáy lòng: “Việt Nam là một phần của cuộc đời tôi...”.
Dân tộc Việt Nam mãi mãi không quên những người Mỹ yêu chuộng tự do, hòa bình đã tự thiêu để phản đối chiến tranh, phản đối quân đội Mỹ gây tội ác ở Việt Nam như: Norman Morrison, Roger Allen LaPorte, cụ bà Alice Herz… Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam không chỉ diễn ra sôi nổi trong lòng nước Mỹ, mà những con người yêu chuộng hòa bình từ nước Mỹ đã lên đường sang tận Việt Nam để bày tỏ sự ủng hộ.
Mở đầu “Bức tâm thư gửi đến nhân dân Việt Nam” của Đoàn Đại biểu nhân dân phản chiến Mỹ do mục sư M.J. Muste, 81 tuổi, dẫn đầu đã viết: “Gửi nhân dân Việt Nam, những người phải chờ đợi hòa bình quá lâu, gửi tất cả người Mỹ ở Việt Nam, gửi nhân dân toàn thế giới. Chúng tôi là những người Mỹ đến Việt Nam để phản đối sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ. Chúng tôi yêu cầu người Mỹ ngưng ngay việc sát hại người Việt Nam”.
Khi sang Việt Nam, mục sư Muste phát biểu: “Chúng tôi rất thán phục và đồng thời cũng cảm thấy xót xa cho dân tộc các bạn bị buộc phải tiến hành một cuộc chiến đấu sống còn chống lại những kẻ xâm lược hùng mạnh nhất thế giới”.
Cảm xúc, nhớ ơn những ân tình sâu đậm và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khi ấy là Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đã xúc động ghi trong hồi ký của mình rằng, khi đặt bút ký hiệp định lịch sử này, bà đã vô cùng xúc động, nghĩ đến “đồng bào, đồng chí, đến bạn bè ở cả 2 miền Nam - Bắc… là ân tình sâu đậm mà cả thế giới dành cho cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta”.
Năm 2004, khi xuất bản cuốn Hồi ký không tên, cựu dân biểu 3 nhiệm kỳ chế độ Sài Gòn, cựu Tổng trưởng Thông tin chính quyền Dương Văn Minh Lý Quí Chung đã kết luận: “30 năm sau nhìn lại ngày 30-4 mới thấy rõ hơn giá trị của ngày giải phóng. Nếu không có ngày đó - chấm dứt hoàn toàn sự can thiệp của người Mỹ, giành được độc lập và thống nhất cho xứ sở - thì chắc chắn đất nước hôm nay không an bình và phát triển, ổn định như đang có”.
Nhà báo Lý Quí Chung cũng khẳng định rằng, nếu như các điều khoản của Hiệp định Paris được đem ra thi hành, ở miền Nam có một chính phủ liên hiệp thì chắc chắn cũng sẽ “là sự tiếp nối của cuộc xung đột dưới một hình thái mới, đầy hỗn loạn và bất ổn, có thể lại đổ máu và chết chóc; “bàn tay lông lá” của người Mỹ vẫn có điều kiện xộc vào gây chia rẽ hận thù giữa người Việt với người Việt; kinh tế của miền Nam vẫn lệ thuộc, tồn tại bằng viện trợ nhỏ giọt của các cường quốc đầy những ý đồ thôn tính; còn miền Bắc có lẽ vẫn sẽ khó khăn, vẫn ở trong tình trạng đối phó chiến tranh vì phải tiếp tục dồn sức chi viện cuộc đấu tranh ở miền Nam. Nhìn đất nước nối liền từ Nam chí Bắc hiện nay, đến bây giờ tôi vẫn tưởng nằm mơ”.
Chiến thắng vĩ đại của dân tộc chính là kết tinh từ trí tuệ và sức mạnh Việt Nam, của lòng anh dũng quả cảm vô song, nhưng cao hơn tất cả, đó là chiến thắng từ sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc.