Kỷ niệm 80 năm Quốc hội Việt Nam (6/1/1946 - 6/1/2026): Quốc hội thống nhất và đổi mới - dấu ấn 10 nhiệm kỳ
Lời Tòa soạn: Sau thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Quốc hội từ khóa VI đến khóa XV thực hiện sứ mệnh cùng toàn Đảng, toàn Dân ta xây dựng đất nước theo Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: 'Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới'.

Khai mạc Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội thống nhất (2/6/1976). Ảnh tư liệu
Báo Đại biểu Nhân dân giới thiệu loạt bài của TS. Bùi Ngọc Thanh, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội về "Quốc hội thống nhất và đổi mới".
Bài 1:
Mười nhiệm kỳ tổ chức và hoạt động của Quốc hội
Sau giải phóng miền Nam, nhiệm vụ được đặt ra cho cả nước là phải tiếp tục hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, tức là chính thức hóa sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.
Tại Hội nghị Hiệp thương chính trị tháng 11/1975, đại biểu hai miền Nam, Bắc đã cùng thống nhất xác định: Việc quan trọng trước mắt là, “cần tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung cho cả nước... Quốc hội đó sẽ xác định thể chế nhà nước, bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và Quyết định Hiến pháp mới của nước Việt Nam thống nhất”(1). Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị về cuộc Tổng tuyển cử và cuộc Tổng tuyển cử đã thành công... Quốc hội khóa VI là Quốc hội thống nhất cả nước đã được xác lập.
Trải qua 16 năm (1976-1992) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ khóa VI đến khóa VIII hoạt động trong thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản (non sông thu về một mối, nhân dân phấn khởi được hưởng độc lập, tự do, dân chủ...) thì cũng xuất hiện muôn vàn khó khăn, thử thách: nguồn viện trợ bị cắt giảm, các thế lực thù địch tăng cường bao vây, cấm vận, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện, sâu sắc, Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, hậu quả chiến tranh nặng nề chưa khắc phục xong thì chiến tranh lại xảy ra ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng...
Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội đã hoàn thành nhiệm vụ trọng đại, quyết định những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của đất nước.
Quốc hội khóa VI quyết định tên nước, quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Thủ đô và Quốc ca của nước Việt Nam thống nhất; quyết định thành lập các cơ quan cấp cao của Nhà nước, bầu, phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước... đã mở ra một trang mới trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa... Quốc hội khóa VI đã tập trung sửa đổi, bổ sung và thông qua Hiến pháp năm 1980 - Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước theo tinh thần Đại hội IV của Đảng. Từ đây cả nước bước vào thực hiện nhiệm vụ chiến lược chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quốc hội khóa VII đã quy định tổ chức của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; bầu, phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước ở Trung ương. Khác với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội. Là mô hình mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nên Quốc hội khóa VI, khóa VII phải xây dựng lại các luật tổ chức bộ máy nhà nước: Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng nhà nước; Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng; Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân...
Thành công lớn nhất của Quốc hội khóa VIII là đã sửa đổi, bổ sung và thông qua Hiến pháp năm 1992; trong đó có sự điều chỉnh quan trọng là lập lại chế độ Chủ tịch nước là cá nhân, thành lập lại Ủy ban Thường vụ Quốc hội; bãi bỏ quy định “Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết” trong Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đã thể chế hóa toàn diện đường lối đổi mới của Đảng, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới.
Quốc hội khóa VIII - Quốc hội của giai đoạn khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Quốc hội đi vào xây dựng, ban hành các đạo luật kinh tế - thể chế hóa chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước (Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Luật Doanh nghiệp tư nhân...). Là nhiệm kỳ đầu tiên của công cuộc đổi mới, cũng là nhiệm kỳ có khối lượng công tác lập pháp khá lớn kể từ các khóa trước tới nay. Quốc hội ban hành 31 luật, bộ luật; Hội đồng Nhà nước ban hành 39 pháp lệnh.
Quốc hội các khóa từ khóa IX đến khóa XII hoạt động trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nhằm mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội đã hoàn thành sứ mệnh là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân; phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thuận lợi cơ bản là sự nghiệp đổi mới đang đi vào chiều sâu, kinh tế tăng trưởng nhanh; văn hóa, xã hội tiến bộ trên nhiều mặt; vị thế của đất nước được tăng lên trên trường quốc tế; đời sống của nhân dân được cải thiện; Độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia được giữ vững...
Khó khăn là, thế giới từ 2 cực, bị phân mảnh chuyển sang đa cực, có nhiều yếu tố phức tạp, khó lường. Từ năm 2008 thế giới rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế - tài chính; biến đổi khí hậu. Ở trong nước chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn thấp; tệ quan liêu, tham nhũng chưa bị đẩy lùi; xuất hiện tình trạng suy thoái đạo đức, tư tưởng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm lòng tin trong công chúng...
Trong bối cảnh đó, Đảng chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện Đại hội X của Đảng khẳng định, “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp... Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội... Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao”(2).
Bước vào thế kỷ thứ XXI, Quốc hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, vừa có vinh dự to lớn, vừa có trách nhiệm nặng nề trước vận mệnh của dân tộc ta trong thế kỷ thứ XXI.
Trong công tác lập pháp, Quốc hội các khóa đã tập trung thể chế hóa đường lối đổi mới tại các Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng và Hiến pháp năm 1992. Quốc hội khóa X đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử lập hiến của Quốc hội Việt Nam. Quốc hội tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp, phân định phạm vi thẩm quyền lập pháp và quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Từ Quốc hội khóa XI, hoạt động lập pháp có bước đột phá, nhất là sau khi ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, với những đổi mới về quy trình lập pháp. Quốc hội khóa này đã thông qua 84 luật, bộ luật, 16 nghị quyết quy phạm pháp luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 35 pháp lệnh. Hệ thống pháp luật, nhất là những luật mới được ban hành đã góp phần quan trọng cho Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Quốc hội khóa XII chỉ có 4 năm nhưng đã thông qua được 67 luật, 13 nghị quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 14 pháp lệnh và 11 nghị quyết quy phạm pháp luật. Phần lớn các luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Sự đổi mới hoạt động lập pháp từ khóa IX đến khóa XII đã tạo tiền đề cho việc thực hiện mục tiêu từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.
Quốc hội từ khóa XIII đến khóa XV (2011-2026) được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 2013. Những năm 2011-2016 nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy giảm; kinh tế vĩ mô dần ổn định, tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, lạm phát được kiểm soát. Việc cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện các đột phá chiến lược đạt kết quả tích cực, tuy nhiên, nền kinh tế phát triển vẫn chưa thật bền vững.
Đến năm 2016, đất nước đã trải qua 30 năm đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, hai năm thực hiện Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của Quốc hội phải góp phần đắc lực trong việc đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại... Bước vào nhiệm kỳ khóa XV, năm 2021 đại dịch Covid-19 đã bùng phát và lan rộng, song nền kinh tế - xã hội vẫn đạt kết quả tích cực; cả nước khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong đó, Quốc hội phải đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả, phát huy dân chủ, tăng tính chuyên nghiệp trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình; xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch và ổn định.
(Còn nữa)












