Kỷ niệm 80 năm Quốc hội Việt Nam: Dấu ấn lịch sử của bản Hiến pháp đầu tiên
Trong 80 năm hoạt động, Quốc hội đã có hàng trăm sự kiện mang đậm dấu ấn lịch sử. Sự kiện đầu tiên là cuộc đấu tranh quyết liệt để Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của đất nước ta ra đời.
Một trong những đặc điểm của Quốc hội Khóa I là cơ cấu đại biểu gồm nhiều nhóm, đảng phái: ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Việt Nam Quốc dân đảng (gọi tắt là Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng chí hội (gọi tắt là Việt Cách)... Việt Quốc và Việt Cách vào thời gian hoạt động cuối cùng 1945 - 1946 vẫn theo xu hướng tranh giành quyền lãnh đạo đất nước, chống lại Việt Minh.
Sau nhiều bước chuẩn bị rất công phu, đến Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội Khóa I, bản Dự thảo Hiến pháp được trình ra Quốc hội tại phiên họp đầu tiên ngày 29/10/1946. Tiểu ban Dự thảo Hiến pháp được bổ sung 10 đại biểu Quốc hội và làm việc thêm 4 ngày đầu của kỳ họp để tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng Dự thảo. Từ phiên họp ngày 2/11/1946, Quốc hội bắt đầu thảo luận Dự thảo mới. Báo cáo thuyết trình đã nêu bật những bước tiến trên con đường dân chủ mới, đã phản ánh được thực tiễn của đất nước, xác định quyền và nghĩa vụ của công dân trong chế độ mới.

Ảnh tư liệu
Đại diện các nhóm, các đảng phái trong Quốc hội gồm: Trần Trung Dung, đại diện cho nhóm Việt Quốc; Hồ Đức Thành, đại diện của Việt Cách; Trần Huy Liệu, đại diện nhóm Mác-xít; Hoàng Văn Đức, đại diện nhóm Dân chủ; Lê Thị Xuyến, đại diện nhóm Xã hội; Nguyễn Đình Thi, đại diện nhóm Việt Minh đã lần lượt phát biểu... Nhiều ý kiến đã nêu lên những ưu điểm, tính chất tiến bộ của nội dung Dự thảo Hiến pháp, đồng thời góp thêm những khía cạnh, câu chữ cụ thể và nhất trí cho biểu quyết để thông qua. Tuy nhiên, các nhóm đại biểu ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam lại có những ý kiến khác.
Đại biểu Trần Trung Dung (Việt Quốc) phát biểu không đồng ý với chế độ một viện. Ông cho rằng, dân chúng Việt Nam chưa được huấn luyện nhiều về chính trị nên sợ rằng chế độ một viện không thích hợp với đất nước Việt Nam. Đại biểu Phạm Gia Đỗ (Việt Quốc) đã phát biểu rất “nặng lời”, không tán thành chế độ một viện, mà theo ông cần phải theo chế độ hai viện, với lý do, chế độ một viện là chế độ “độc tài của đa số”!
Ngay lập tức, các đại biểu Đỗ Đức Dục, Đinh Gia Trinh, Đào Trọng Kim, Nguyễn Sơn Hà và nhiều đại biểu khác đã phát biểu và nhất loạt tán thành chế độ một viện. Đào Trọng Kim (đại biểu tỉnh Sơn Tây) nhấn mạnh: Dự thảo Hiến pháp đã phản ánh được nguyện vọng thiết tha của dân chúng. Chế độ tập quyền có sự phân công là rất thích hợp để có thể ứng phó mau lẹ với thời cuộc luôn luôn biến chuyển.
Đại biểu Khuất Duy Tiến đã tranh luận với đại biểu Phạm Gia Đỗ và phân tích rõ ràng, dự thảo Hiến Pháp Việt Nam rất cấp tiến. Chính thể của nước Việt Nam là chính thể tập quyền và có sự phân công rõ ràng, rành mạch. Chúng ta, ai cũng tha thiết với tự do, nhưng phải nhớ rằng, tự do của cá nhân không được trái với quyền lợi tối cao của Tổ quốc. Cá nhân muốn được tự do cho mình thì phải nỗ lực đấu tranh cho Tổ quốc.
Đại biểu Trần Trung Dung (Việt Quốc) lại nói nhiều đến quyền tự do của công dân, nhưng cố ý chỉ trích Chính phủ, trong một năm trời nắm chính quyền chưa cho dân chúng được hưởng quyền tự do (như dự thảo Hiến pháp đã nêu ra). Đại biểu Phạm Văn Đồng (tỉnh Quảng Ngãi) đang điều hành phiên thảo luận, song cũng đã tranh luận lại rằng, Trần Trung Dung phê phán không đúng đối với Chính phủ, vì trong một năm, Chính phủ đã nỗ lực đấu tranh gay go, quyết liệt để giữ gìn nền độc lập còn non trẻ của đất nước... Đại biểu Khuất Duy Tiến tiếp tục tranh luận có tính chỉ trích Trần Trung Dung là đã phủ nhận nền dân chủ của nước Việt Nam sau cuộc Cách mạng Tháng Tám...
Dưới sự lãnh đạo kiên quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, với lý lẽ sắc bén, thực tế thuyết phục, tuyệt đại bộ phận các đại biểu Việt Quốc và Việt Cách đã nhận thức lại và bắt đầu thấm nhuần ý nghĩa tự do, dân chủ được quy định trong Dự thảo Hiến pháp. Các đại biểu đều thống nhất cao với những quy định về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa...
Qua nhiều phiên thảo luận, tranh luận sôi nổi, sửa đổi, bổ sung từng điều, Quốc hội đã đi đến nhất trí thông qua Hiến pháp. Tại kỳ họp này, toàn thể Quốc hội đều đã công nhận cờ đỏ sao vàng là lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, không thể bàn cãi và tất cả đã đứng lên nghiêm trang chào lá Quốc kỳ rồi đồng thanh hát vang bài Tiến quân ca. Ngày 9/11/1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với 240 đại biểu tán thành trên 242 đại biểu có mặt.
Bản Hiến pháp gồm Lời nói đầu, 7 chương và 70 điều. Lời nói đầu đã ghi rõ thành quả của cuộc cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ của dân tộc trong giai đoạn mới và những nguyên tắc xây dựng Hiến pháp:
“Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho Nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa.
Sau tám mươi năm đấu tranh, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nhà nước đã bước sang một quãng đường mới.
Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.
Được quốc dân trao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Quốc hội nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc sau đây:
- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do, dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của Nhân dân.
Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại”.
Ngày nay, Quốc hội đã và đang kế thừa, phát huy bản lĩnh của nhiều đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên. Chỉ có điều khác là, do bối cảnh lịch sử, trong cơ cấu đại biểu Quốc hội Khóa I có nhiều đảng phái, nhiều “phe, nhóm” khác nhau, vì vậy phải tranh luận (đấu tranh) để giữ vững đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản. Còn ngày nay, trong Quốc hội tất cả là một khối đoàn kết thống nhất; tranh luận là để tiếp cận đúng với thực tiễn, tranh luận là để đi đến phương án tối ưu nhất cho mỗi vấn đề. Quốc hội làm việc theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo luật định, do đó đã ngày càng nâng cao hiệu năng và hiệu lực, đem lại hiệu quả thiết thực nhất.
(*) Bài viết theo: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960, NXB CTQH, HN. 1994; Văn kiện Quốc hội Toàn tập, T1 1946-1960, NXB CTQG, HN.2006.












