Ký ức của Đại tá tình báo Tư Cang về mùa Thu lịch sử 1945
80 năm đã qua, nhưng trong ký ức của Đại tá tình báo Tư Cang, những ngày mùa Thu năm 1945 và chặng đường kháng chiến vẫn vẹn nguyên như mới hôm qua.
Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Tàu (bí danh Tư Cang) tham gia cách mạng từ năm 17 tuổi, trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ông từng nhiều năm hoạt động tình báo ngay trong lòng Sài Gòn và ở bất cứ cương vị nào cũng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và trở thành huyền thoại tình báo.
Những tháng ngày mùa Thu lịch sử trong ký ức Đại tá tình báo
Đến thăm ông Tư Cang vào một ngày tháng 8/2025 tại nhà riêng. Ông sống trong căn nhà giản dị, nép mình bên dòng kênh dẫn qua bán đảo Thanh Đa, cách khá xa trung tâm TP.HCM.
Nhắc đến ngày 2/9/1945, không khí trầm lắng của buổi chiều tà trở nên sôi nổi, rộn ràng hơn. Ông Tư Cang kể về ngày lịch sử đó bằng tất cả sự trân quý, tự hào.

Đại tá tình báo Tư Cang sống trong ngôi nhà giản dị ở TP.HCM.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào và bạn bè thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thời điểm ấy, đồng bào miền Nam không được trực tiếp nghe giọng Bác. Vài ngày sau, ông Tư Cang cùng đội Thanh niên Tiền phong của làng mới vinh dự được nghe ông Mã Văn Thái đọc lại Bản Tuyên ngôn.
Dù chỉ nghe qua giọng đọc của người khác, ông vẫn hình dung được không khí hân hoan của ngày Quốc khánh. Từ đó, trong chàng thanh niên Nguyễn Văn Tàu bùng lên tinh thần yêu nước, thôi thúc ông dấn thân cách mạng, hết lòng phụng sự Tổ quốc.
“Tôi nhớ nhất câu: ‘Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền hưởng tự do và độc lập. Và Việt Nam thực sự đã trở thành một nước tự do và độc lập’. Cả đội Thanh niên Tiền phong cùng đưa tay lên thể hiện lời thề: ‘Quyết đem xương máu, của cải, sức lực giữ vững độc lập tự do ấy’”, Đại tá Tư Cang nhớ lại.
Ông Tư Cang kể tiếp: “Từ tháng 6/1945, tôi chính thức gia nhập Thanh niên Tiền phong. Lúc đó, Nhật đã đồng ý cho thành lập tổ chức này, cũng là nhờ ta khéo léo trong công tác ngoại giao. Đây cũng là một trong những điểm vận dụng sáng tạo quan trọng trong việc thực hiện Chỉ thị số 8 của Trung ương: Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Mỗi chiều, ông cùng các thanh niên trong làng tham gia tập luyện. Không có súng, họ dùng gậy tầm vông - loại tre thẳng, chắc, được vót nhọn một đầu, gắn thêm vòng dây để mô phỏng động tác chiến đấu, trói bắt.
Nhờ giỏi tiếng Pháp, có kiến thức văn hóa, sức khỏe tốt và chút võ nghệ, Nguyễn Văn Tàu được chọn làm bảo vệ cho thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong tại địa phương.
Sáng 25/8/1945, tiếng trống làng vang lên giục giã. Người dân trong làng nhanh chóng tụ tập đông đủ. Thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong hô hào: “Hôm nay chúng ta đi giành chính quyền ở Bà Rịa!”.
Cùng dòng người hừng hực khí thế, người thanh niên Nguyễn Văn Tàu bước vào những ngày đầu của Cách mạng Tháng Tám - dấu mốc lịch sử làm thay đổi vận mệnh đất nước.
Từ kháng chiến chống Pháp đến tình báo chống Mỹ
Cuối năm 1945, ông Tư Cang được cử đi dự khóa huấn luyện 15 ngày tại Phước Hải. “Giảng viên chỉ có một khẩu súng chiến lợi phẩm. Cả năm chục học viên chỉ được nhón chân ngó, chưa ai biết cách bắn. Vậy mà sau này ta đã đánh thắng Pháp ở Điện Biên Phủ”, ông xúc động khi nhớ về những ngày tháng gian khó mà kiên cường.

Đại tá tình báo Tư Cang khi còn trẻ.
Từ những ngày đầu, ông tham gia đội du kích Quang Trung - tiền thân lực lượng vũ trang tỉnh Bà Rịa. Nhờ biết tiếng Pháp, ông được giao làm công tác công khai, quyên góp nuôi quân và thu thập tin tức. Trận đánh đầu tiên của ông là ở đồn Xà Bang năm 1946. Sau Hiệp định Genève 1954, ông tập kết ra Bắc, rồi được chọn vào lực lượng tình báo.
“Hồi còn chống Pháp, tôi lấy tên Trần Văn Quang. Suốt 9 năm kháng chiến, rồi sau khi tập kết ra Bắc, làm Chính trị viên đại đội trinh sát Sư đoàn 338, tôi vẫn dùng bí danh này. Đến năm 1961, Tổng cục 2 chọn tôi đi đào tạo tình báo. Lúc đó, tôi được tập trung ở Ngã Tư Sở (Hà Nội), xe quân sự chở đi, bít bùng kín mít để giữ bí mật. Đây là đoàn Phương Đông 1 - đoàn tình báo đầu tiên", ông Tư Cang bồi hồi kể.
Tuy nhiên, khi được phân công vào ngành tình báo, ông không khỏi lo lắng: “Tình báo thì sống chết kề bên, hiểm nguy vô cùng. Tôi từng nghĩ thôi trốn đi, quay về bộ binh đánh giặc còn đỡ hơn. Nhưng cuối cùng, lý lịch đã được duyệt, tên tuổi đã có trong danh sách. Tôi đành bước lên chiếc xe jeep trở lại Hà Nội, tiếp tục khóa huấn luyện 6 tháng
Tháng 12/1961, ông Tư Cang lên đường vào Nam trong đợt thứ hai, mang mật danh đoàn Phương Đông 2 tiếp tục con đường vào chiến trường đầy gian khổ.
Ở tuổi xế chiều, vị đại tá tình báo nhìn lại: “Từ những ngày cầm gậy tầm vông, nay đất nước có tàu điện, cao tốc, kinh tế phát triển, vị thế quốc tế vững vàng. Như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, chưa bao giờ nước ta có cơ đồ, tiềm lực, uy tín như hôm nay. Đó là thành quả của biết bao thế hệ hy sinh”.
Ông Tư Cang (tên thật là Nguyễn Văn Tàu) sinh năm 1928 tại Vũng Tàu. Năm 1945, khi mới 17 tuổi, ông gia nhập phong trào Thanh niên Tiền phong, bắt đầu hành trình dấn thân vì độc lập dân tộc.
Từ năm 1947 đến năm 1954, trong vai trò chiến sĩ quân báo của Việt Minh tại Bà Rịa - Vũng Tàu, ông khai thác nhiều thông tin tình báo, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, làm trung đội trưởng trinh sát, kiêm chính trị viên đại đội đặc công thuộc Sư đoàn 338.
Năm 1961, ông trở lại chiến trường miền Nam. Tháng 5/1962, ông trở thành chỉ huy cụm tình báo H.63 cho đến khi đất nước thống nhất. Cụm tình báo H.63 hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang Nhân dân.
Năm 2005, ông Tư Cang được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang Nhân dân.