Kỳ vọng với tiếng Anh
Những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh.
Tuy nhiên, quá trình từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học vẫn còn nhiều hạn chế, các mục tiêu kỳ vọng vẫn chưa đạt như mong muốn.
Theo Chỉ số thông thạo Anh ngữ EF EPI năm 2024, Việt Nam đứng thứ 63 trên tổng số 116 quốc gia. So với năm 2023, Việt Nam tụt 5 bậc (từ vị trí 58 xuống 63), còn cách khá xa so với thứ hạng tốt nhất từng đạt được là vị trí 52 vào năm 2019. Trong khu vực châu Á, Việt Nam đứng thứ 8, xếp sau Singapore (609 điểm), Philippines (570 điểm), Malaysia (566 điểm)… Điều này cho thấy, dù tiếng Anh đã và đang được chú trọng trong hệ thống giáo dục của nước ta nhưng hiệu quả vẫn chưa tương xứng với kỳ vọng.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân của tình trạng trên là do, tại nhiều trường học, sĩ số đông và thời lượng học tiếng Anh hạn chế, khiến học sinh ít cơ hội thực hành. Bên cạnh đó, sự chênh lệch điều kiện học tập giữa các vùng miền tạo ra khoảng cách đáng kể.
Để khắc phục những bất cập nêu trên, mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã ký Quyết định số 2371/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045”. Mục tiêu là xây dựng hệ sinh thái sử dụng tiếng Anh trong các cơ sở giáo dục từ mức độ 1 đến mức độ 3; tăng cường dạy học bằng tiếng Anh, từng bước hình thành thế hệ công dân toàn cầu đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Để hiện thực hóa mục tiêu đó, chúng ta cần nhìn rõ và nhanh chóng vượt qua được những thách thức hiện nay. Đội ngũ giáo viên tiếng Anh vẫn còn thiếu, đặc biệt tại miền núi, vùng sâu, vùng xa. Không ít nhà trường, phụ huynh chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của tiếng Anh trong nâng cao năng lực cạnh tranh nghề nghiệp và hội nhập quốc tế. Nếu không thay đổi từ nhận thức, rất khó để tạo đột phá trong dạy và học ngoại ngữ.
Vì vậy, trong thời gian tới, các địa phương cần tăng cường đầu tư trang thiết bị dạy học, hạ tầng công nghệ thông tin, đặc biệt tại khu vực khó khăn. Đồng thời, nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên tiếng Anh; thúc đẩy liên kết giữa trường đại học sư phạm, trường chuyên ngữ với trường phổ thông, mầm non để tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nhất là giáo viên tiếng Anh và giáo viên dạy các môn học bằng tiếng Anh.
Bên cạnh đó, cần có chính sách phát hiện và đãi ngộ học sinh, sinh viên có năng lực tiếng Anh xuất sắc; khuyến khích sinh viên giỏi tiếng Anh trở thành giáo viên tại các vùng khó khăn; nghiên cứu cơ chế mời chuyên gia, giáo viên nước ngoài sử dụng thành thạo tiếng Anh giảng dạy tại các cơ sở công lập. Tiếp tục đổi mới phương thức thi, kiểm tra, đánh giá. Xây dựng hệ thống quy trình, công cụ đánh giá năng lực tiếng Anh, năng lực chuyên ngành, nghề bằng tiếng Anh trong giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên theo chuẩn đầu ra một cách đồng bộ, liên thông, tiệm cận với chuẩn đánh giá theo năng lực của quốc tế.
Dù còn nhiều khó khăn, nhưng với quyết tâm cao, chiến lược rõ ràng và sự đồng hành của toàn xã hội, đặc biệt là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và phương pháp đào tạo tiên tiến, mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học hoàn toàn khả thi. Đây là nền tảng quan trọng góp phần xây dựng thế hệ công dân Việt Nam tự tin hội nhập, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/ky-vong-voi-tieng-anh-722007.html












