Lần theo Ngã ba Hạc phú

Có những quá khứ, làm mê ngủ bao đời người. Nhưng cũng lại có những kỷ niệm, dù là kỷ niệm đắng cay, làm người ta tỉnh thức. Quốc Tử Giám hôm nay còn lại những văn bia, vẫn vang vọng những dòng tên đã thuộc về phía khác. Hình như, giữa hội tao đàn của các bậc đàn anh, Nguyễn Bá Lân đang khiêm tốn ngồi kia, cùng nâng chén với Lê Quý Đôn, bác học - thông gia.

Để có cuộc gặp gỡ này, thế kỷ 18 đã phải viết sử bằng máu và nước mắt, cùng với bao khôn dại lỡ lầm của cả vua, chúa, quan, quân; hình như có cả tiếng kêu van trời đất của muôn dân và danh nhân nữa.

Nguyễn Bá Lân đang hãnh diện ngẩng cao đầu ngâm ngợi phú Nôm, phú Hán hay lầm lũi ở con hẻm nào của 36 cái phố phường trong quá khứ?

Nội lực bừng lên, bốc hỏa, hóa thân vào “Ngã ba Hạc phú”, làm bà đỡ cho một Nguyễn Bá Lân - Tiến sĩ, sống cùng trời đất đến ngày hôm nay?

Viên mãn một cuộc đời đã làm rạng danh cho cả dòng họ Nguyễn Bá vốn nhiều “kinh bang tế thế”; trải từ Kinh Bắc xa xôi; qua vùng Cổ Đô (trấn Sơn Tây) đến trung du Phú Thọ bây giờ.

Được thừa hưởng truyền thống giáo dục của gia đình có cội rễ sâu xa là văn hóa, lớn lên trong sự dắt dìu nghiêm khắc và dân chủ có định hướng của người cha - người thầy Nguyễn Công Hoàn với khuyến khích liên tục về sự tranh đua, thi thố văn chương nên Nguyễn Bá Lân sớm có trong tiềm thức khát vọng kiếm tìm và xác lập những chân giá trị. Lịch sử của thời đại ấy lại có nhiều đối chứng cho ông kiểm nghiệm, suy ngẫm nên vào những lúc tưởng đã cạn kiệt niềm hy vọng, ông vẫn nguyên một giá trị đích thực cả về đạo và đời.

Trớ trêu thay, ông sinh ra không phải chỉ để làm quan; chuyên tâm chăm chú cho mỗi một việc: Điều binh khiển tướng. Tài năng đã chắp cánh cho ông. Nhưng hình như đến lúc làm quan trong triều rồi, ông mới chợt vỡ ra rằng: Cũng chẳng để làm gì, nếu như không “lập công, lập đức và lập ngôn”. Chính vì vâỵdù được thừa hưởng nhiều ân huệ của triều đình, ông vẫn luôn hướng về phía nhân dân. Dường như ông linh cảm được trước mọi biến thiên của lịch sử, kiếp người. Ở ông còn có một sợi dây tình cảm nào đấy, rất mật thiết và cũng có rất nhiều cung bậc rung lên từ phía khốn cùng. Ông nghe được và ông đau khổ. Cũng bởi vậy, suốt cuộc đời làm quan, ông đã phải cùng một lúc chịu lực đè từ trên xuống và sự thúc giục từ dưới lên? Trong sự giằng níu không phải lúc nào cũng tự do quẫy đạp được, ông đã biết bỏ qua cái nhỏ để làm nghiệp lớn.

Cũng vì biết sống ít hơn tài năng có thật, ông được dân quý, vua trọng. Cả những kẻ đối nghịch cũng phải kiềng nể. Cốt lõi là đây chăng? Giữa hoàn cảnh éo le, giữa bốn bề xu nịnh, nếu không biết sống thế, ông giữ sao được bản ngã của một trí thức phong kiến thanh liêm, chính trực.

Sống trong cái thời đảo điên, tao loạn ấy, tài lắm, họa nhiều. May sao ông đã làm văn chương, ký thác và gửi gắm cho đời sau tâm trạng của mình, thái độ sống của mình, qua mong manh chữ nghĩa. Và ông đã tồn tại, chính danh một nhà văn hóa, một trong bốn đại tài của nước Nam thuở đó.

Ông đã đi lại tới mòn chân nơi cửa phủ, thuộc đến từng ngọn cỏ lá cây ven bờ hồ Hoàn Kiếm, hiểu đến tường tận cốt cách người Thăng Long và Thăng Long ngàn năm văn vật. Vậy mà có lúc, hình như do buồn phiền, lơ đễnh mà dây vào những điều nên tránh, mà ông suýt nữa bị liên lụy, phiền toái?

Có thể nói, nhắc đến ông là làm thức dậy những tháng năm không bình thường của lịch sử. Trong sự đảo lộn liên tục các giá trị mà chế độ phong kiến định hình, thì Nguyễn Bá Lân là một trong những giá trị bền vững, hiếm và quý, đến độ có thể coi như một chút vàng ròng của lịch sử.

Sống trong cái thế kỷ thê lương, ngập những chuyện đau buồn ấy, đến như Nguyễn Bá Lân cũng còn phải trốn mình vào nghiệp chướng, coi văn chương như một sự giải thoát.

Và như vậy, “Ngã ba Hạc phú” không đơn thuần là “tức cảnh sinh tình” mà ở đây phải hiểu như là giãi bày của tâm trạng được quy nạp gửi gắm qua một tâm sự lớn của một tâm thế lớn. Không phải ngẫu nhiên, Tiến sĩ, Thượng thư Nguyễn Bá Lân lại viết “xinh thay ngã ba Hạc, lạ thay ngã ba Hạc”, để rồi ngay sau đó lại đẩy tới một đối chứng “dưới hợp một dòng” mà “trên chia ba ngác”. Thiên nhiên khéo vẽ vời, hay “dưới” và “trên” có điều gì khuất tất? Làm quan và làm dân là như thế chăng? Trong linh cảm chia tan “ngóc ngách khôn đo rộng hẹp”, Nguyễn Bá Lân không chỉ thiên về tả đâu, mà dường như bằng cái nhìn của một đạo sĩ ông đã chỉ ra giữa “lênh lang dễ biết nông sâu” đúng cái chỗ “huyệt kim quy chênh hẻm đá gồng ghềnh”? Để rồi đứng giữa “vũ trụ mơ màng, càn khôn xếch xác” ông lại phải dằn lòng nhớ về Hoài Bão - Tiên Du của phủ Từ Sơn, vùng Kinh Bắc ấy. Tổ tiên ông ở đấy. Ở đấy là hy vọng. Cũng có thể sẽ là thất vọng nếu như ông vướng bụi kinh thành để thanh danh nhiễm bẩn.

Phải chăng, Thượng thư, Tiến sĩ Nguyễn Bá Lân chính là câu trả lời của dòng họ Nguyễn Bá trước mọi triều chính, ở giữa nơi trời đất. Hình như trong thăm thẳm nỗi niềm Nguyễn Bá Lân còn là nơi triều đình luôn kính nể, hãnh diện và cũng đầy ngờ vực.

Như thế, càng thêm chứng tỏ một nhân cách lớn của một tài năng lớn, từng chói sáng trong lịch sử, từng có ở đương thời một lần kêu oan cho Lê Quý Đôn bác học; một lần không bị bạc vàng mua chuộc lúc Đặng Thị Huệ muốn chối bỏ Trịnh Khải để lập Trịnh Cán lên ngôi chúa. Tấm lòng trong sáng ấy của Nguyễn Bá Lân cũng là sự minh triết trước lịch sử. Tiếc rằng, tất cả những gì chúng ta được biết đến ngày hôm nay còn quá ít. Ngay cuốn “Cổ Đô gia phả” của dòng họ Nguyễn Bá cũng còn phải thừa nhận sự ghi chép quá sơ sài về một “thời kỳ cả mấy trăm năm thái bình thì ít, rối ren thì nhiều”. Và khi xem gia phả, chúng ta lại như “lần mò trong đêm tối, cầu mong một đốm lửa nhỏ để soi đường, cho dù đó chỉ là một con đom đóm”.

Nguyễn Bá Lân - con người đầy khát vọng chấp chính và khả năng chấp chính - ông Tổ của dòng họ Nguyễn Bá, miền Cổ Đô, Tiên Sơn (thuộc trấn Sơn Tây và vùng Kinh Bắc) có lẽ đang ngước mắt lên nhìn chúng ta mỉm cười. Rằng, rất có thể con cháu hôm nay chưa hiểu gì về ông cả. Vâng, xin kính cẩn thưa với Tiến sĩ, Thượng thư: Bây giờ đã là thập niên thứ 2 của thế kỷ 21. Cái tên Nguyễn Bá Lân sẽ còn để lại cho chúng ta nhiều suy ngẫm - không chỉ với một bài “Ngã ba Hạc phú” nổi tiếng.

----------------

Ngã ba Hạc: Chỗ hợp lưu của ba sông là sông Đà (hoặc sông Bờ), sông Lô (hoặc sông Tuyên) và sông Nhị Hà, ở giáp huyện Bạch Hạc (nay thuộc Vĩnh Yên).

NGUYỄN HƯNG HẢI (Chi Hội Nhà văn Việt Nam tại Phú Thọ)

Nguồn Phú Thọ: http://baophutho.vn/van-hoc-nghe-thuat/202004/lan-theo-nga-ba-hac-phu-170487