Lan tỏa công nghệ - cần động lực và cả nghĩa vụ

Chúng ta không thiếu luật, mà là luật chưa tạo ra được động lực và nghĩa vụ cụ thể để thúc đẩy sự lan tỏa công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.

Sáng qua, trong báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ trình Quốc hội, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đưa ra một đề nghị đáng chú ý, đó là “rà soát, nghiên cứu bổ sung thêm cơ chế khuyến khích để thực hiện hiệu quả chính sách “lan tỏa công nghệ... từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) sang doanh nghiệp trong nước”.

Có thể nói rằng, đề xuất trên đây đã điểm trúng một trong những nghịch lý lớn nhất của nền kinh tế nước ta sau gần 40 năm thu hút FDI: chúng ta thành công rực rỡ trong việc thu hút FDI, đưa dòng vốn này trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nhiều thập kỷ, nhưng lại chưa tận dụng được dòng vốn này để nâng cấp năng lực công nghệ quốc gia. Thay vì tạo ra một hệ sinh thái cộng hưởng, sự kết nối giữa khu vực FDI và khu vực doanh nghiệp trong nước thời gian qua vẫn còn rất lỏng lẻo, hiệu ứng lan tỏa chưa rõ nét dù đã có rất nhiều chính sách “thảm đỏ” được áp dụng cho các doanh nghiệp FDI.

Thực tế trên có một nguyên nhân cơ bản từ các chính sách thu hút FDI vừa qua chủ yếu vẫn được vận hành theo hướng: tập trung vào các ưu đãi về thuế, phí... với hy vọng sự lan tỏa công nghệ sẽ tự động diễn ra. Luật Đầu tư, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hay Luật Chuyển giao công nghệ đều đã có những điều khoản khuyến khích hoạt động nghiên cứu - phát triển (R&D), đổi mới sáng tạo, nhưng các ưu đãi chủ yếu dựa vào cam kết đầu vào mà chưa gắn với kết quả đầu ra. Khi đặt các dự án FDI “lên bàn cân”, thực tế là, chúng ta vẫn tập trung vào các yếu tố như: quy mô vốn, diện tích đất, lĩnh vực công nghệ cao… mà chưa thực sự quan tâm thỏa đáng đến việc dự án ấy có chuyển giao được gì cho doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp địa phương hay không.

Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017, dù có tinh thần khuyến khích rõ ràng, vẫn thiếu những cơ chế cụ thể buộc doanh nghiệp FDI phải hành động. “Khuyến khích” mà không có “ràng buộc” dễ biến thành khẩu hiệu tốt đẹp nhưng khó kiểm chứng. Và thực tế, thay vì lan tỏa, không ít doanh nghiệp FDI lớn đã hình thành “ốc đảo sản xuất” - tự cung, tự cấp trong chuỗi cung ứng khép kín. Các doanh nghiệp này nhập khẩu linh kiện, lắp ráp tại Việt Nam, xuất khẩu sản phẩm, nhưng ít có sự kết nối, hợp tác thực chất về công nghệ với khu vực doanh nghiệp nội địa.

Tất nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, không thể đòi hỏi sự lan tỏa nếu “bên nhận” chưa đủ năng lực hấp thụ. Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam vẫn là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn mỏng, công nghệ còn lạc hậu, thiếu chuẩn quản trị và hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Ngay cả khi doanh nghiệp FDI sẵn sàng đặt hàng, doanh nghiệp trong nước nhiều khi cũng không đáp ứng nổi yêu cầu kỹ thuật hoặc tiến độ giao hàng, khiến sự liên kết bị đứt gãy. Lan tỏa công nghệ, vì thế còn là câu chuyện làm thế nào để doanh nghiệp Việt Nam đủ sức “đứng” vào cùng một chuỗi giá trị của doanh nghiệp FDI.

Nhìn lại các đạo luật liên quan có thể thấy, chúng ta không thiếu luật, mà là luật chưa tạo ra được động lực và nghĩa vụ cụ thể để thúc đẩy sự lan tỏa công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.

Như vậy, các điều luật phải được thiết kế trên tinh thần chuyển từ chính sách “ưu đãi để thu hút” sang “ưu đãi dựa trên kết quả lan tỏa”. Trong đó, có thể cân nhắc bốn nhóm giải pháp trọng tâm:

Thứ nhất, điều kiện hóa ưu đãi. Với các dự án FDI quy mô lớn hoặc sử dụng nhiều đất đai, các điều khoản về nội địa hóa, đào tạo nhà cung ứng, hợp tác R&D bắt buộc cần được đàm phán và ghi rõ trong giấy phép đầu tư. Ưu đãi đặc biệt chỉ nên đi kèm với cam kết cụ thể và cơ chế giám sát định lượng.

Thứ hai, hỗ trợ bên nhận. Khi một doanh nghiệp FDI tham gia “đỡ đầu” doanh nghiệp Việt Nam trở thành nhà cung ứng, Nhà nước nên hỗ trợ doanh nghiệp Việt về tín dụng, tư vấn, chứng nhận tiêu chuẩn. Ngược lại, doanh nghiệp FDI được khấu trừ thuế tương ứng với chi phí đào tạo, nếu kết quả chuyển giao được chứng minh.

Thứ ba, thưởng cho kết quả lan tỏa. Cần có cơ chế “ưu đãi cộng thêm” cho những doanh nghiệp FDI có đóng góp thực chất: giúp doanh nghiệp Việt tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, chuyển giao quy trình, công nghệ, hay đặt hàng nghiên cứu trong nước.

Thứ tư, xây dựng hệ sinh thái liên kết. Một nền tảng kết nối quốc gia giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam, cùng các trung tâm R&D, kiểm định dùng chung do Nhà nước hỗ trợ, sẽ là hạ tầng mềm để lan tỏa tri thức và công nghệ.

Những cơ chế trên đây không chỉ tạo “áp lực tích cực” cho khu vực FDI mà còn mở “lối đi lên” cho doanh nghiệp Việt - từ chỗ phụ thuộc sang chủ động.

Sửa đổi Luật Chuyển giao công nghệ là một cơ hội để điều chỉnh và hiện thực hóa mục tiêu lan tỏa công nghệ, để FDI không chỉ là nguồn vốn, mà còn phải là chất xúc tác cho năng lực công nghệ nội địa. Nếu chỉ “mở cửa” mà không “kết nối”, ưu đãi, tạo động lực mà thiếu những nghĩa vụ ràng buộc đo đếm được, giám sát được thì dòng vốn FDI dù có chất lượng cao đến đâu cũng khó đóng góp bền vững cho mục tiêu tự chủ công nghệ. Ngược lại, nếu biết đặt điều kiện đúng, hỗ trợ trúng, và giám sát đủ, FDI sẽ trở thành “dòng chảy” nuôi dưỡng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Việt Nam.

Nguyễn Bình

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/lan-toa-cong-nghe-can-dong-luc-va-ca-nghia-vu-10393899.html