Lãnh đạo không phải người địa phương: Phòng ngừa tha hóa, bảo vệ cán bộ khỏi quan hệ thân tộc
Ông Nguyễn Túc cho rằng việc lãnh đạo không phải người địa phương vừa là biện pháp phòng ngừa tha hóa, vừa là cách bảo vệ cán bộ khỏi áp lực quan hệ thân tộc.
Khi người đứng đầu được điều động từ nơi khác, quyền lực không còn dựa vào quan hệ quê quán, mà đặt dưới kỷ luật của Đảng, thể chế và sự giám sát của Nhân dân.
Đó là cách Đảng chuyển từ mô hình quản trị dựa trên quan hệ sang mô hình quản trị bằng thể chế, siết chặt kiểm soát quyền lực và kiến tạo văn hóa lãnh đạo mới: liêm chính, công tâm, minh bạch.
Từ “người của tỉnh” thành “người của Đảng”, từ quyền lực địa phương sang quyền lực vì dân tộc, đây chính là bước tiến thể hiện bản lĩnh tự đổi mới và năng lực tự hoàn thiện của Đảng cầm quyền trong giai đoạn phát triển mới.
Tư duy nhân sự tầm quốc gia
Trong lịch sử Đảng, mỗi thay đổi trong công tác cán bộ đều gắn với một bước ngoặt về tư duy lãnh đạo. Nếu thời kỳ đổi mới kinh tế mở ra con đường thoát khỏi bao cấp, thì hôm nay, đổi mới trong quản trị nhân sự đang mở ra một cuộc cải cách sâu hơn - từ bên trong bộ máy, nơi quyền lực được kiểm soát bằng kỷ luật, nguyên tắc và niềm tin của Nhân dân.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị Trung ương Đảng khóa XIII.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Báo - nguyên Chánh Thanh tra Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tư tưởng cốt lõi của chủ trương bố trí Bí thư không phải người địa phương nằm ở việc “đặt lợi ích chung, kỷ luật của Đảng và yêu cầu kiểm soát quyền lực lên trên mọi ràng buộc dòng họ, thân hữu và địa phương”.
“Đó là cách tạo nên một cấu trúc lãnh đạo đủ xa để vô tư, đủ gần để chịu trách nhiệm", bà nhấn mạnh, "Tư duy này đánh dấu bước chuyển từ quản trị dựa trên quan hệ sang quản trị bằng thể chế và kỷ cương”.

Người được điều động không còn là người ‘của tỉnh’, mà là người ‘của Đảng’. Họ không chỉ đại diện cho địa phương, mà còn đại diện cho chuẩn mực quản trị quốc gia.
PGS.TS Nguyễn Thị Báo
Theo bà Báo, tính nhất quán của tư duy ấy được thể chế hóa trong nhiều văn bản quan trọng, đặc biệt là Kết luận số 200-KL/TW (17/10/2025) của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV.
Kết luận khẳng định tiếp tục bố trí cán bộ lãnh đạo không phải người địa phương - một bước đi nhằm chống cục bộ, ngăn hình thành “vùng trũng lợi ích”, siết chặt kiểm soát quyền lực.
Tư duy ấy cũng thể hiện trong Quy định 205 (2019) và Quy định 114 (2023) của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và chống chạy chức, chạy quyền.
Hai văn bản này trở thành “hàng rào thể chế”, bảo đảm quyền lực không bị khép kín trong các mối quan hệ địa phương hay nhóm lợi ích.
Theo bà, phi địa phương hóa cán bộ không chỉ là điều chỉnh nhân sự, mà là chuyển động văn hóa trong công tác lãnh đạo: Đặt người đứng đầu vào hệ thống giám sát dọc - ngang chặt chẽ hơn, khó bị chi phối bởi sợi dây thân quen và lợi ích riêng.
Kiểm soát quyền lực từ thể chế đến đạo đức
Theo bà Báo, chủ trương này được củng cố bởi hai động lực song hành: kiểm soát quyền lực và phát triển liên vùng. Kiểm soát quyền lực để ngăn chặn sự can thiệp của cá nhân và nhóm lợi ích; phát triển liên vùng để mở rộng tầm nhìn lãnh đạo vượt khỏi phạm vi hành chính, hướng đến tư duy quốc gia.
“Văn hóa lãnh đạo trong bối cảnh mới là văn hóa công vụ của người đứng đầu - liêm chính, công tâm, thượng tôn kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước", bà nói, và lưu ý "Người lãnh đạo phải hòa nhập để hiểu dân, hiểu đất, nhưng không hòa tan nguyên tắc”.
Theo nghiên cứu về đạo đức quyền lực, bà Bảo cho rằng quyền lực chỉ có giá trị khi được kiểm soát bằng đạo đức và nguyên tắc. “Đạo đức quyền lực là khả năng tự ràng buộc mình trước cám dỗ, biến quyền lực công thành công cụ phụng sự lợi ích chung”, bà nhấn mạnh.
Người lãnh đạo, vì thế, không chỉ tuân thủ kỷ luật của Đảng mà còn phải tự kiểm soát bản thân, không đặt quan hệ lợi ích lên trên nguyên tắc, và kiến tạo môi trường minh bạch, học hỏi, chịu trách nhiệm - ba phẩm chất then chốt giúp họ rút ngắn độ trễ thích ứng khi công tác tại địa phương mới.
“Chủ trương Bí thư không phải người địa phương thể hiện tư duy lãnh đạo thống nhất toàn quốc. Nó đang góp phần hình thành một văn hóa lãnh đạo mang tầm quốc gia - kỷ luật, minh bạch, lấy Nhân dân làm gốc, lấy niềm tin làm nền”, bà Báo kết luận.
Văn hóa quyền lực - nền tảng của niềm tin Nhân dân
Ở bình diện thực tiễn, ông Nguyễn Túc - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - cho rằng đây là bước tiến căn bản của văn hóa chính trị Việt Nam, khi Đảng dũng cảm vượt qua rào cản truyền thống để củng cố niềm tin của Nhân dân.

Ở quê mình, họ hàng nhờ vả, không giúp thì mất lòng, giúp thì phạm luật. Bố trí khác quê là để cán bộ giữ được mình, giữ được Đảng.
Ông Nguyễn Túc
“Trong văn hóa Việt Nam, làng - họ - nước là ba tầng gắn kết thiêng liêng. Nhưng trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nếu người lãnh đạo vừa có quyền, vừa gắn sâu với làng xã, thì truyền thống ấy đôi khi lại trở thành lực cản”, ông nói.
Ông phân tích: Hầu hết sai phạm lớn trong lịch sử đều có yếu tố địa phương, dòng họ hay thân hữu chi phối.
Vì vậy, bố trí người đứng đầu không phải người địa phương vừa là biện pháp phòng ngừa tha hóa, vừa là cách bảo vệ chính cán bộ khỏi áp lực quan hệ thân tộc.
Ông cũng bác bỏ quan điểm “người lạ khó được dân tin”: “Dân tin vào đức và tài, chứ không tin vì cùng quê. Bác Hồ dạy: cán bộ phải vừa hồng vừa chuyên. Chỉ cần có tâm, có tầm, thì dù ở đâu dân cũng thương”.
Theo ông Nguyễn Túc, văn hóa quyền lực không nằm ở chỗ người lãnh đạo có bao nhiêu quyền, mà ở cách sử dụng quyền ấy để phục vụ Nhân dân. Người lãnh đạo chân chính là người dám chống lại cám dỗ, đặt đạo đức lên trên lợi ích, biến quyền lực thành công cụ của phụng sự.
Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo: phi địa phương hóa không có nghĩa là buông giám sát. Trong thời đại công nghệ, quan hệ có thể “nối ngầm”, nên cùng với kiểm tra của Đảng, cần sự giám sát của Nhân dân. “Khi Nhân dân giám sát, quyền lực mới thực sự trong sáng”, ông Nguyễn Túc nhấn mạnh.

Các đại biểu tại Hội nghị Trung ương Đảng khóa XIII.
Từ truyền thống “một người làm quan, cả họ được nhờ” đến nguyên tắc “cán bộ là đầy tớ của Nhân dân”, Đảng đã đi một chặng đường dài để hình thành mô hình quản trị nhân sự thống nhất, vượt lên khỏi ràng buộc địa phương tính.
Chủ trương bố trí Bí thư không phải người địa phương vì thế không chỉ là đổi mới về tổ chức cán bộ, mà là bước tiến trong tư duy lãnh đạo, thể hiện bản lĩnh văn hóa quyền lực và khả năng tự hoàn thiện của Đảng cầm quyền.
Một Đảng mạnh không phải vì không có khuyết điểm, mà vì biết tự soi, tự sửa, và dám bước qua vùng an toàn của chính mình. Và chính từ những quyết sách như vậy, Đảng đang kiến tạo nên một văn hóa lãnh đạo mang tầm quốc gia, nơi niềm tin của Nhân dân được đo không phải bằng quê quán, mà bằng khoảng cách giữa lời nói và hành động, giữa quyền lực và đạo đức.










