Lao động di cư làm việc tại các nước trong ASEAN có xu hướng tăng

Di cư lao động trong nội khối ASEAN có xu hướng ngày càng tăng trong những năm gần đây. Hiện có khoảng 10 triệu người lao động di cư đang sinh sống và làm việc tại các nước trong khu vực ASEAN.

10 triệu người lao động di cư trong nội khối ASEAN

Ngày 29/7, Bộ Nội vụ tổ chức hội thảo về hội nhập ASEAN trong lĩnh vực lao động và nền kinh tế chăm sóc trong ASEAN. Phát biểu khai mạc hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng thông tin, Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào và được đánh giá là cần cù, chăm chỉ. Theo số liệu thống kê năm 2024, Việt Nam có lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt 53 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động chỉ ở mức 2,24%. Tuy vậy, trình độ của lao động của Việt Nam vẫn còn hạn chế; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ ước tính chỉ đạt 28,3%, còn thấp so với nhiều nước trong khu vực.

Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, Việt Nam đang đối mặt với những cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động do trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, hạn chế về ngoại ngữ và các tiêu chuẩn lao động quốc tế khác.

Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng cho biết, hiện có khoảng 10 triệu người lao động di cư đang sinh sống và làm việc tại các nước trong khu vực ASEAN. Ảnh: moha

Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng cho biết, hiện có khoảng 10 triệu người lao động di cư đang sinh sống và làm việc tại các nước trong khu vực ASEAN. Ảnh: moha

Theo Thứ trưởng Vũ Chiến Thắng, lao động di cư nội khối là một đặc điểm quan trọng của thị trường lao động ASEAN. Theo các báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Ban Thư ký ASEAN, di cư lao động trong nội khối ASEAN có xu hướng ngày càng tăng trong những năm gần đây. Hiện có khoảng 10 triệu người lao động di cư đang sinh sống và làm việc tại các nước trong khu vực ASEAN.

Lao động di cư không chỉ đóng góp quan trọng cho nền kinh tế chăm sóc của các quốc gia ASEAN mà còn thường đảm nhận những công việc chăm sóc mà người lao động bản địa không đủ hoặc không muốn làm. Sự hiện diện của lao động di cư giúp giảm bớt áp lực cho hệ thống chăm sóc trong nước, đồng thời mang lại chuyển giao những kinh nghiệm và kỹ năng mới.

Tuy nhiên, lao động di cư cũng đối mặt với nhiều thách thức, từ điều kiện làm việc khắc nghiệt đến thiếu các quyền lợi cơ bản. Do đó, cần có những chính sách và biện pháp bảo vệ quyền lợi của lao động di cư, bảo đảm họ được làm việc trong môi trường an toàn, công bằng.

Bảo đảm người dân ASEAN có việc làm

Thông tin về tình hình hợp tác lao động trong ASEAN giai đoạn 2021 - 2025 và ưu tiên cho giai đoạn 2026 - 2030, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế bà Hà Thị Minh Đức nhấn mạnh, vai trò của hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN (ALMM) là một nền tảng quan trọng để các Bộ trưởng phối hợp những chính sách, sáng kiến nhằm cải thiện tiêu chuẩn lao động, việc làm và bảo vệ người lao động trong nền kinh tế chăm sóc.

Tại Việt Nam, các ưu tiên hợp tác khu vực về lao động, việc làm tập trung vào những nội dung: nâng cao tính cạnh tranh và năng suất của lực lượng lao động, thúc đẩy tạo việc làm, thúc đẩy quan hệ lao động, tăng cường an sinh xã hội. Bên cạnh đó, các hoạt động ưu tiên tại Việt Nam: lồng ghép bình đẳng giới vào lĩnh vực lao động; thúc đẩy hợp tác liên ngành nhằm tăng cường an sinh xã hội; nghiên cứu đánh giá về tính tương thích của Luật Lao động trong khu vực.

Các đại biểu tham dự hội thảo về hội nhập ASEAN trong lĩnh vực lao động và nền kinh tế chăm sóc trong ASEAN. Ảnh: moha.

Các đại biểu tham dự hội thảo về hội nhập ASEAN trong lĩnh vực lao động và nền kinh tế chăm sóc trong ASEAN. Ảnh: moha.

Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường như cạnh tranh giữa các nước lớn, xung đột vũ trang, rủi ro với thương mại quốc tế và chuỗi cung ứng toàn cầu, ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của các quốc gia. Vấn đề già hóa dân số ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Séc... và một số nước châu Âu gia tăng nhu cầu tiếp nhận lao động. Các quốc gia thành viên ASEAN đang xây dựng Chương trình công tác của Bộ trưởng Lao động ASEAN cho giai đoạn 2026 - 2030. Mục tiêu tổng quát nhằm đảm bảo người dân ASEAN có việc làm, có năng suất và lực lượng lao động có khả năng cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu công việc, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người.

Lao động nữ làm chăm sóc có lương tham gia bảo hiểm 59,3%

Tại hội thảo, các đại biểu đã trao đổi chuyên đề về nền kinh tế chăm sóc và người lao động chăm sóc ở ASEAN, bao gồm cả công việc chăm sóc được trả lương và không được trả lương. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe là một phần quan trọng của nền kinh tế chăm sóc, hỗ trợ sức khỏe thể chất và tinh thần.

Chia sẻ kết quả hợp tác nghiên cứu giữa UN Women & Viện Khoa học Lao động và Xã hội năm 2023 - 2024 về công việc chăm sóc được trả lương và không được trả lương tại Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bích Thủy – chuyên gia cho biết, thuật ngữ công việc chăm sóc không lương chưa được sử dụng trong các tài liệu chính thức, thay vào đó là cụm từ “nội trợ” hoặc “công việc gia đình”.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại sự kiện. Ảnh: moha

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại sự kiện. Ảnh: moha

Phụ nữ là người đảm nhiệm chính các công việc chăm sóc trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật trong hộ gia đình. Nữ là 2,34 giờ/ngày, nam là 1,31 giờ/ngày (2022), cao gấp 1,78 lần. Thời gian làm công việc chăm sóc không lương có xu hướng giảm dần cả ở nữ và nam.

Công việc chăm sóc được trả lương ở Việt Nam, bao gồm các dịch vụ chăm sóc trẻ em, chăm sóc người cao tuổi, chăm sóc cho người khuyết tật. Số lao động nữ làm việc trong ngành kinh tế chăm sóc (công việc chăm sóc có lương) chiếm 72,8%. Mặc dù chiếm phần lớn trong ngành kinh tế chăm sóc nhưng nữ lại chủ yếu tập trung làm việc ở nhóm “nghề giản đơn” và “chuyên môn kỹ thuật bậc trung”.

Năm 2023, tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội ngành chăm sóc có lương ở nữ là 59,3% và nam là 80,3%. Khoảng cách thu nhập theo giới cũng có sự chênh lệch, nữ là 7,5 triệu đồng/tháng và nam là 9,6 triệu đồng/tháng.

Tại hội thảo, nhóm nghiên cứu giữa UN Women, Viện Khoa học Lao động và Xã kiến nghị thay đổi nhận thức của bản thân người phụ nữ, của mỗi gia đình và toàn xã hội để nhận ra giá trị của việc chăm sóc, thúc đẩy sự chia sẻ trách nhiệm, phân công lại của công việc chăm sóc không lương. Đồng thời, thúc đẩy các hệ thống chăm sóc công lập cung cấp những dịch vụ chăm sóc có chất lượng, dễ tiếp cận và mức giá phù hợp với nhiều người sử dụng; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho việc chăm sóc…

Trần Oanh

Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/lao-dong-di-cu-lam-viec-tai-cac-nuoc-trong-asean-co-xu-huong-tang.788648.html