Lễ hội truyền thống: Tiềm năng lớn để phát triển công nghiệp văn hóa

Theo ý kiến chuyên gia, Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển công nghiệp văn hóa dựa trên lễ hội, song cần tôn trọng truyền thống và nghiên cứu thị trường để tạo ra các dịch vụ phù hợp.

Lễ hội Khai hạ của người Mường ở Hòa Bình diễn ra ngày mùng Tám Tết Ất Tỵ. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)

Lễ hội Khai hạ của người Mường ở Hòa Bình diễn ra ngày mùng Tám Tết Ất Tỵ. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)

Năm nay, thực hiện theo đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các địa phương đã tổ chức lễ hội sau Tết Nguyên đán Ất Tỵ và hội Xuân 2025 với nhiều điểm mới tích cực, thực hiện nếp sống văn minh, phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc và phong tục, tập quán tốt đẹp của Nhân dân.

Đây được xem là một tín hiệu vui bởi lễ hội là yếu tố quan trọng của du lịch văn hóa, một trong 12 ngành công nghiệp văn hóa đang được chú trọng đầu tư.

Nhân dịp này, Phó Giáo sư-Tiến sỹ Dương Văn Sáu, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội chia sẻ với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus về tiềm năng phát triển công nghiệp văn hóa dựa trên lễ hội.

'Bài toán' phát triển lễ hội thời hiện đại

- Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cả nước hiện có gần 8.000 lễ hội. Đó hẳn là tiềm năng to lớn để phát triển du lịch văn hóa, một trong 12 ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, thưa ông?

Phó Giáo sư-Tiến sỹ Dương Văn Sáu: Trước tiên, cần phải hiểu lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại có liên quan mật thiết tới cộng đồng cư dân bản địa.

 Phó Giáo sư-Tiến sỹ Dương Văn Sáu, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội là tác giả nhiều công trình nghiên cứu về di sản văn hóa. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Phó Giáo sư-Tiến sỹ Dương Văn Sáu, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội là tác giả nhiều công trình nghiên cứu về di sản văn hóa. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Đây cũng là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa cộng đồng của con người trong các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội của mình. Lễ hội truyền thống Việt Nam vốn sinh ra từ cộng đồng làng, xã của người Việt; phản ánh lối sống, nếp sống sinh hoạt sản xuất cũng như những ứng xử với thiên nhiên, trời đất và thánh thần của người Việt.

Ngày nay, lễ hội không chỉ thuộc về riêng một địa phương mà còn thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Có thể nói du lịch lễ hội là một trong những loại hình chủ đạo của du lịch di sản, du lịch văn hóa Việt Nam.

- Thưa ông, chính vì lễ hội ngày nay thu hút rất đông khách thập phương, nên một số nghi thức bị coi là phản cảm, bạo lực không còn phù hợp với đời sống văn minh, chẳng hạn như đâm trâu, chém lợn... Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

Phó Giáo sư-Tiến sỹ Dương Văn Sáu: Lễ hội truyền thống mang những nét bản sắc văn hóa riêng của các địa phương. Tuy nhiên, trong tiến trình hội nhập của xã hội văn minh hiện nay, lễ hội đã mở rộng tầm ảnh hưởng, không chỉ của riêng một địa phương nữa mà mang tính khu vực, quốc gia và quốc tế. Cuộc sống phát triển, cách giao tiếp, ứng xử trong đời sống văn hóa-xã hội của các cộng đồng cư dân cũng có nhiều đổi thay. Do đó, nhiều tập tục truyền thống không còn phù hợp với một cộng đồng người tham dự ngày một lớn dần.

 Du khách đến dự Lễ hội Đúc Bụt (Vĩnh Phúc) được Ban tổ chức 'tản chiếu phát lộc' thay cho việc 'cướp chiếu' như trước kia. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)

Du khách đến dự Lễ hội Đúc Bụt (Vĩnh Phúc) được Ban tổ chức 'tản chiếu phát lộc' thay cho việc 'cướp chiếu' như trước kia. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)

Theo tôi, việc giữ gìn và tôn trọng truyền thống bản địa là cần thiết nhưng cũng cần phải có sự giao thoa, hội nhập để phù hợp với sự phát triển của xã hội.

Một số nghi lễ, tục hèm vốn được xem là linh thiêng, riêng có của lễ hội ở một địa phương nào đó bỗng trở nên bạo lực, phản cảm, không còn phù hợp... trong mắt cộng đồng xã hội tham dự lễ hội. Theo tôi, cần phải có nghiên cứu cụ thể từng trường hợp, điều chỉnh phù hợp để vừa bảo tồn được di sản, vừa đảm bảo sự văn minh của lễ hội trong tiến trình hội nhập.

Các nghi lễ mật, tục hèm cần được thực hành trong không gian thiêng, dành riêng cho cộng đồng đại diện địa phương, còn tại không gian cộng đồng của lễ hội có sự tham gia của đông đảo các đối tượng du khách, Ban Tổ chức có thể nghiên cứu, chuyển hình thức thể hiện từ hiện thực sang thành biểu tượng, chẳng hạn như không thực hiện việc “chém lợn” thật trước đông đảo cộng đồng mà chỉ trình diễn nghi lễ này với hình thức sân khấu hóa. Còn tục hèm này vẫn được thực hiện trong không gian và thời gian thiêng của lễ hội với quy mô giới hạn.

Tạo 'giá trị gia tăng' cho lễ hội

- Từ năm 2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai “Bộ tiêu chí về môi trường văn hóa trong lễ hội truyền thống.” Ông có đề xuất giải pháp gì để triển khai bộ tiêu chí này một cách hiệu quả, giảm thiểu tình trạng dịch vụ lễ hội kém chất lượng và các tiêu cực khác như đốt vàng mã tràn lan, hành nghề mê tín dị đoan…?

Phó Giáo sư-Tiến sỹ Dương Văn Sáu: Để nhìn nhận và giải quyết vấn đề này tận gốc, chúng ta phải hiểu bản chất của hoạt động lễ hội. Theo tôi, bản chất của lễ hội truyền thống Việt Nam là kết quả của quá trình “Tam hóa”: Lịch sử hóa, sân khấu hóa và xã hội hóa.

 Màn trống khai hội Đền Trần Thái Bình. (Ảnh: Vũ Quang/TTXVN)

Màn trống khai hội Đền Trần Thái Bình. (Ảnh: Vũ Quang/TTXVN)

“Lịch sử hóa” chính là sự biến chuyển các nhân vật, sự kiện theo tiến trình của lịch sử. Các sự kiện và nhân vật lịch sử gắn với cộng đồng nhưng biến chuyển theo dòng thời gian theo dòng lịch sử và được hoạt động lễ hội gìn giữ và chuyển tải đến cộng đồng thông qua hình thức lễ hội.

“Sân khấu hóa” tức là những hoạt động diễn ra trong lễ hội là theo dòng lịch sử thì đã được cộng đồng cư dân sân khấu hóa, tái hiện quá khứ bằng một “vở diễn” với đầy đủ kịch bản, diễn viên, rồi đạo cụ, đạo diễn, nhân vật chính, nhân vật phụ, người xem.... Có thể nói một cách văn hóa, bản chất của lễ hội chính là một “vở diễn” phản ánh lịch sử, thể hiện văn hóa ứng xử của cộng đồng, do cộng đồng bản địa được tiến hành.

“Xã hội hóa” tức là trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi tổ chức các hoạt động trong lễ hội thuộc về cộng đồng xã hội. Lễ hội sẽ do cộng đồng tiến hành phục vụ cộng đồng và lễ hội cũng đem đến những giá trị xã hội cho cộng đồng hưởng thụ.

 Đoàn rước kiệu tại Hội Phết Hiền Quan, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)

Đoàn rước kiệu tại Hội Phết Hiền Quan, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)

Ngày nay lễ hội đã phát triển lên quy mô lớn, mở rộng ra nhiều thành phần, trong đó có cả các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh dịch vụ phục vụ du khách. Sự phát triển này dẫn đến những tệ nạn như chúng ta đang phải đối mặt.

Để giải quyết tình trạng này thì chúng ta cần phải có những giải pháp thật đồng bộ. Thứ nhất là chính quyền địa phương cần phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại nơi không gian diễn ra lễ hội đó một cách đồng bộ và phù hợp, đặc biệt là hạ tầng giao thông; phát triển các dịch vụ phù hợp có kiểm soát chặt chẽ.

Thứ hai là cần phải phối hợp hành động một cách chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, của các ban, ngành liên quan, giữa ngành văn hóa, thể thao, du lịch về giao thông với tất cả các bộ phận có liên quan về an ninh trật tự cũng như là về bảo vệ môi trường.

Thứ ba là đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết để ứng xử có văn hóa, văn minh cho người dân và cho cả du khách khi tham dự lễ hội. Các cá nhân, tập thể cung cấp dịch vụ phải được phổ biến nội quy, quy chế chặt chẽ, ký các cam kết với chính quyền và ban tổ chức lễ hội... Cùng với đó là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý để chấn chỉnh sai phạm kịp thời.

 Lễ vật phẩm Voi chiến cúng tiến của thôn Dược Thượng, xã Tiên Dược trong Lễ hội Gióng Đền Sóc, Hà Nội. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)

Lễ vật phẩm Voi chiến cúng tiến của thôn Dược Thượng, xã Tiên Dược trong Lễ hội Gióng Đền Sóc, Hà Nội. (Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN)

- Lễ hội chính là nơi chúng ta phát huy được công nghiệp văn hóa thông qua những hoạt động biểu diễn nghệ thuật, giải trí, vui chơi, ẩm thực. Theo ông, phải làm gì để phát triển công nghiệp văn hóa thông qua lễ hội?

Phó Giáo sư-Tiến sỹ Dương Văn Sáu: Như chúng ta hiểu một cách đơn giản thì lễ hội gồm hai phần: Lễ và hội. Lễ là những ứng xử của con người đối với thần thánh, hội là những ứng xử của con người với con người trong không gian và thời gian diễn ra lễ hội.

Phần hội mang lại lợi ích chính đáng, hợp pháp cho các cá nhân và tổ chức có liên quan. Muốn như vậy thì cần phải có các nghiên cứu một cách tổng quan về lễ hội, về không gian, nhu cầu của du khách và từ đó để có thể đưa ra được những chính sách, quy chế phù hợp trong việc bảo tồn được giá trị di sản văn hóa của địa phương.

Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá những giá trị độc đáo, đặc sắc hàm chứa trong các lễ hội; phải nghiên cứu thị trường, đánh giá năng lực tổ chức, phát triển các dịch vụ của các cá nhân và tổ chức trong không gian của lễ hội. Từ đó có thể tư vấn và tạo điều kiện đầu tư hạ tầng cho các cá nhân, tổ chức sáng tạo, phát triển nhiều dịch vụ một cách độc đáo, thích hợp, đáp ứng được nhu cầu du khách trên tinh thần là phải văn minh, lịch sự và phải tôn trọng truyền thống bản địa cũng như là tôn trọng quy định pháp luật.

- Xin trân trọng cảm ơn ông./.

(Vietnam+)

Nguồn VietnamPlus: https://www.vietnamplus.vn/le-hoi-truyen-thong-tiem-nang-lon-de-phat-trien-cong-nghiep-van-hoa-post1015127.vnp