Liên kết nông nghiệp hiệu quả nhưng chưa bền vững

Sau 6 năm thực hiện Nghị định 98/2018/NĐ-CP về khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nông sản, nhiều mô hình đã phát huy hiệu quả nhưng chưa bền vững; phần lớn mới dừng ở hợp đồng mua bán, thiếu cam kết dài hạn, thủ tục rườm rà và hạ tầng số còn hạn chế.

Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng phát biểu tại Hội nghị.

Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng phát biểu tại Hội nghị.

Ngày 11/11, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị sơ kết 6 năm thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Liên kết - động lực nâng tầm chuỗi giá trị nông sản

Theo báo cáo tổng hợp từ 34 tỉnh, thành phố, tính đến hết tháng 6/2025, cả nước đã có 2.938 dự án và kế hoạch liên kết được phê duyệt theo Nghị định 98, trong đó 1.968 dự án và 970 kế hoạch đã triển khai trực tiếp tại địa phương. Đáng chú ý, 2.331 dự án do hợp tác xã chủ trì, khẳng định vai trò trung tâm của khu vực kinh tế tập thể trong chuỗi giá trị nông sản.

Tổng kinh phí thực hiện các dự án liên kết đạt 15.243 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước hỗ trợ 3.186 tỷ đồng (20,9%), phần còn lại do doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân đối ứng. Bình quân mỗi dự án có quy mô 5,18 tỷ đồng, ngân sách hỗ trợ khoảng 1,08 tỷ đồng. Mức hỗ trợ tuy không lớn nhưng đã “kích hoạt” hàng nghìn mô hình hợp tác hiệu quả trên khắp cả nước.

Sau hơn 6 năm triển khai, Nghị định 98/2018/NĐ-CP đã tạo ra bước ngoặt trong tư duy phát triển nông nghiệp, chuyển từ sản xuất tự phát sang tổ chức sản xuất có liên kết chặt chẽ theo chuỗi giá trị. Một “văn hóa hợp tác mới” đã hình thành: nông dân chủ động sản xuất theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp; hợp tác xã trở thành cầu nối tin cậy, đại diện lợi ích nông dân và là đối tác kinh tế thực sự trong chuỗi giá trị.

 Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh phát biểu tại Hội nghị.

Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh phát biểu tại Hội nghị.

Nhiều hợp tác xã được đầu tư hạ tầng sản xuất, kho bảo quản, hệ thống truy xuất nguồn gốc, nâng cao năng lực quản trị. Nhờ đó, nhiều địa phương đã hình thành vùng nguyên liệu tập trung gắn với mã số vùng trồng, tiêu chuẩn xuất khẩu, mở ra cơ hội tiếp cận thị trường chính ngạch. Các ngành hàng chủ lực như lúa gạo, cà phê, trái cây, thủy sản, chăn nuôi và lâm sản đều ghi nhận bước tiến rõ rệt về tổ chức sản xuất và tiêu chuẩn hóa quy trình.

Chuỗi liên kết giúp giảm phụ thuộc vào thương lái, mở rộng thị trường xuất khẩu sang Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU), Mỹ. Nông dân tham gia liên kết có thu nhập cao hơn 10%-20% so với sản xuất đơn lẻ, nhờ giảm chi phí đầu vào, ổn định đầu ra và nâng cao năng suất. Doanh nghiệp kiểm soát được nguyên liệu, giảm rủi ro thị trường, tăng uy tín thương hiệu, trong khi chính quyền địa phương có thêm công cụ quản lý vùng sản xuất và hoạch định chính sách hiệu quả.

Hướng tới chuỗi giá trị nông nghiệp xanh, số hóa

Theo Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn Lê Đức Thịnh, quá trình triển khai Nghị định 98/2018/NĐ-CP vẫn còn những hạn chế. Tính bền vững của các mô hình liên kết chưa cao; nhiều dự án mới dừng lại ở hợp đồng mua bán, thiếu cam kết dài hạn về đầu tư, kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng. Khi giá thị trường biến động, liên kết dễ đứt gãy, phản ánh tư duy hợp tác còn ngắn hạn.

Thủ tục hành chính còn rườm rà, khiến hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ khó tiếp cận chính sách. Việc thiếu đội ngũ tư vấn chuyên nghiệp khiến nhiều mô hình không đủ năng lực lập dự án, dù có hỗ trợ tư vấn tới 300 triệu đồng/dự án. Bên cạnh đó, hạ tầng số phục vụ quản lý và truy xuất nguồn gốc còn yếu, dữ liệu phân tán, thiếu chuẩn hóa.

Năng lực quản trị của hợp tác xã còn yếu, doanh nghiệp chưa có động lực đầu tư dài hạn do thiếu cơ chế bảo hiểm rủi ro, thiếu vốn tín dụng ưu đãi. Các chính sách hiện nay chủ yếu hỗ trợ đầu tư ban đầu mà chưa có cơ chế “hỗ trợ theo kết quả”, dẫn tới việc duy trì liên kết chưa thực sự bền vững.

Ông Lê Đức Thịnh kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp các bộ, ngành tham mưu Chính phủ sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 98 trong năm 2026.

Tại hội nghị, ông Hoàng Vũ Quang, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường đề xuất, cần tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và hợp tác xã thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất để đầu tư hạ tầng, kho lạnh, nhà xưởng phục vụ sơ chế, bảo quản, chế biến nông sản; đồng thời hỗ trợ tích tụ đất đai để phát triển sản xuất quy mô lớn, hình thành cánh đồng mẫu.

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Võ Văn Hưng nhấn mạnh, Việt Nam đã hình thành được chuỗi giá trị nông sản quy mô lớn, có sức lan tỏa, là công cụ quản trị trung tâm giúp truy xuất nguồn gốc, minh bạch thương mại và quản lý toàn bộ chuỗi. Trong bối cảnh thực hiện cam kết Net Zero 2050, giá trị sản phẩm và tín chỉ carbon đang trở thành động lực kinh tế mới cho nông dân và hợp tác xã.

Theo Thứ trưởng Võ Văn Hưng, liên kết nông nghiệp Việt Nam hiện “đã hình thành về lượng nhưng chưa vững về chất”. Thủ tục hỗ trợ còn rườm rà, liên kết số và xanh chưa được chú trọng, năng lực hợp tác xã chưa đủ mạnh để điều phối chuỗi.

Ông Võ Văn Hưng đề xuất bốn nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới: cải cách thủ tục và cơ chế hỗ trợ; phát triển chuỗi giá trị số và xanh; tổ chức sản xuất gắn vùng nguyên liệu chuẩn, cấp mã số vùng trồng; xây dựng hệ sinh thái tư vấn liên kết xuyên suốt.

“Liên kết chuỗi giá trị không chỉ là phương thức sản xuất, mà còn là văn hóa hợp tác, niềm tin và bản lĩnh của nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp Việt Nam”, Thứ trưởng Võ Văn Hưng khẳng định.

THANH TRÀ

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/lien-ket-nong-nghiep-hieu-qua-nhung-chua-ben-vung-post922261.html