Logistics trong thời đại Công nghệ 4.0

TS. Đoàn Duy Khương Cùng với nhận thức và nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp trong chuyển đổi số, việc xây dựng và thực thi hiệu quả các chính sách liên quan của Chính phủ sẽ định vị ngành logistics Việt Nam đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các nguồn lực phát triển đất nước và trong sự chuyển dịch của kinh tế khu vực và toàn cầu.

Logistics - trung tâm của chuỗi cung ứng

Với sự thay đổi của khu vực và thế giới, có hai lĩnh vực trọng tâm lớn nhất được đặt ra trong nền kinh tế: tiêu chuẩn và chuỗi cung ứng sản phẩm. Ngành hậu cần logistics là một phần của quản lý chuỗi cung ứng liên quan đến dòng chảy hiệu quả của hàng hóa, dịch vụ và thông tin liên quan từ điểm xuất phát đến điểm tiêu thụ theo nhu cầu của khách hàng.

Với sự phát triển của công nghệ số, logistics ngày càng đóng vai trò trung tâm của chuỗi cung ứng. Logistics không chỉ có chi phí đầu tư lớn và tác động mạnh đến giá cả sản phẩm (trung bình chiếm khoảng 5% GDP, 20% giá cuối cùng của hàng hóa) mà còn quyết định chất lượng của thương mại quốc tế khi mà bất kể khoảng cách xa, gần, khách hàng đều muốn sản phẩm của mình được giao nhanh chóng và hoàn hảo nhất.

Việc áp dụng chuyển đổi kỹ thuật số trong hậu cần logistics khá chậm chạp so với các ngành khác trong những thập kỷ trước. Tuy nhiên, 5 năm trở lại đây, ngành công nghiệp này đã chứng kiến sự xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp hợp tác chặt chẽ hơn với các công ty công nghệ khi lĩnh vực này đang mở ra một thị trường trị giá hàng trăm tỷ USD. Các báo cáo thống kê cho thấy 2,3 nghìn tỷ USD trên toàn thế giới sẽ được đầu tư vào công nghệ và dịch vụ cho phép số hóa vào năm 2023. Điều này cho thấy các doanh nghiệp logistics có thể hưởng lợi như thế nào từ công nghệ kỹ thuật số.

Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế mở, dựa vào thương mại quốc tế khi có quan hệ kinh tế song phương với trên 230 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam cũng đã ký kết 16 hiệp định thương mại tự do với 60 nền kinh tế. Tính chung năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa cả nước đạt 670 tỷ USD, gấp gần 2 lần tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Việt Nam cũng có vị trí địa - chính trị quan trọng trong khu vực, đặc biệt là trên Biển Đông - tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu - châu Á, Trung Đông - châu Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Biển Đông mang tầm quan trọng chiến lược to lớn. Ngoài tiềm năng về năng lượng, khoáng sản và hải sản, số liệu thống kê cho thấy hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% số đó phải đi qua vùng Biển Đông với lượng thương mại trị giá gần 5,5 nghìn tỷ USD mỗi năm. Nhiều nước và vùng lãnh thổ ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Trung Quốc.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ là 1 trong 3 đột phá chiến lược để phát triển đất nước. Thực hiện nhiệm vụ trên, chúng ta đã từng bước nâng cấp đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển, đường thủy nội địa giữa các địa phương và kết nối đồng thời với các nước khu vực thông qua cửa khẩu đường bộ, đường biển và hàng không.

Về đường biển, hệ thống cảng biển được đầu tư đồng bộ với năng lực thông qua khoảng 570 triệu tấn/năm. Hai cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép và Lạch Huyện đã có khả năng tiếp nhận tàu tải trọng lớn từ 130.000 tấn đến 200.000 DWT đi thẳng bờ Tây nước Mỹ, Canada và châu Âu; cảng chuyên dùng tiếp nhận được tàu từ 100.000 tấn đến 320.000 tấn; từng bước phát triển hệ thống cảng cạn hỗ trợ hiệu quả cho việc khai thác cảng biển, phát triển dịch vụ logistics.

Về đường hàng không, các cảng hàng không quan trọng đã được nâng cấp gồm Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng và xây dựng mới gồm Phú Quốc, Vân Đồn, nâng tổng công suất mạng cảng hàng không đạt khoảng 90 triệu hành khách/năm. Công nghệ điều hành bay hiện đại bảo đảm an toàn, tăng hiệu quả khai thác hạ tầng cảng hàng không.

Cảng quốc tế Cái Mép được xếp hạng 11 trên tổng số 370 cảng container hoạt động tốt nhất toàn cầu. Nguồn: ITN

Cảng quốc tế Cái Mép được xếp hạng 11 trên tổng số 370 cảng container hoạt động tốt nhất toàn cầu. Nguồn: ITN

Thách thức trong kỷ nguyên số

Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ số trong doanh nghiệp logistics nói riêng và trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn nhiều hạn chế và đang đối mặt với khoảng cách lớn về trí tuệ nhân tạo (AI). Theo số liệu thống kê, đầu tư vào các công ty giải pháp AI thì Việt Nam cùng với Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines đều dưới mức 1 USD/người trong khi Singapore là 68 USD, Trung Quốc 21 USD (năm 2019) và Hoa Kỳ đạt 155 USD. Điều đó đặt ra thách thức cho Việt Nam cần phải đầu tư mạnh mẽ hơn nữa để tận dụng nền tảng kỹ thuật số trong sản xuất và phân phối hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Ngoài ra, chuyển đổi kỹ thuật số cũng có nhiều rủi ro. Trong số 1,3 nghìn tỷ USD đã được chi cho kỹ thuật số năm ngoái, ước tính 900 tỷ USD đã bị lãng phí. Tại sao một số nỗ lực kỹ thuật số thành công và một số lại thất bại? Về cơ bản, đó là vì công nghệ kỹ thuật số đều cung cấp khả năng tăng hiệu quả và làm hài lòng khách hàng. Nhưng nếu doanh nghiệp thiếu tư duy để thay đổi, hạ tầng không đồng bộ và không có phương thức tổ chức triển khai thực hiện chiến lược chuyển đổi phù hợp thì sẽ thất bại và khi đó kỹ thuật số chỉ đơn giản là công cụ phóng đại những thất bại đó.

Chính vì vậy, để ứng dụng tốt chuyển đổi số trong ngành công nghiệp logistics, doanh nghiệp cần nhận thức có thể tận dụng quá trình số hóa để đem lại nhiều lợi ích như: tăng hiệu quả, xây dựng lòng tin giữa các đối tác thương mại và các bên liên quan, định tuyến cung ứng tối ưu, quản trị tốt phương tiện vận tải, ra quyết định thông minh trên công cụ điện toán nhận thức và hỗ trợ trí tuệ nhân tạo… Thực tế cho thấy công nghệ số sẽ giúp ngành logistics vượt qua các thách thức bằng cách tối ưu hóa quy trình, giao tiếp từ đầu đến cuối, quản lý chuỗi cung ứng, cải thiện trải nghiệm của khách hàng và kiểm soát chi phí. Theo một nghiên cứu mới, công nghệ số nói chung và trí tuệ nhân tạo nói riêng có thể chuyển nền kinh tế khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam, sang một nấc thang cao hơn. Nếu các thành viên ASEAN bắt kịp tốc độ áp dụng AI, họ có thể tăng thêm gần 1 nghìn tỷ USD (riêng Việt Nam trên 100 tỷ USD) vào tổng sản phẩm quốc nội của khu vực năm 2030.

Ứng dụng công nghệ số trong doanh nghiệp logistics là quá trình chuyển đổi đột phá mang tính khoa học cao đòi hỏi sự tiên phong nghiên cứu và đề xuất mô hình phù hợp với quy hoạch kinh tế - xã hội từng khu vực cũng như môi trường thiên nhiên. Tổng Công ty Logiinds (thuộc tập đoàn CT group) là một ví dụ điển hình. Trong kế hoạch năm 2023, Logiinds sẽ tập trung xây dựng Kho ngoại quan hiện đại tại Tân Sơn Nhất và Đà Nẵng. Chiến lược xây dựng quá trình ứng dụng công nghệ số của Logiinds gồm 4 giai đoạn phát triển gồm: Khởi động chuyển đổi số; Chuyển đổi mô hình kinh doanh kỹ thuật số; Định hướng mới lĩnh vực kinh doanh; Chuyển đổi cấu trúc doanh nghiệp.

Xây dựng 5 chính sách vĩ mô

Để xây dựng môi trường kinh doanh kỹ thuật số bảo đảm đem lại lợi ích thiết thực và hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp cũng như chuyển đổi kinh doanh kỹ thuật số hiệu quả, cần xây dựng 5 chính sách vĩ mô cụ thể.

Chính sách tiêu chuẩn logistics chung của quốc gia: trong kỹ thuật công nghệ, tiêu chuẩn là ưu tiên số 1. Do đó cần xây dựng chính sách tiêu chuẩn logistics chung của Việt Nam phù hợp với xu hướng tiêu chuẩn và quy tắc chuyển đổi số của các nước công nghiệp phát triển.

Đào tạo kỹ năng kỹ thuật số: bất kỳ giải pháp công nghệ nào cũng phải tính đến ảnh hưởng tới người lao động và đặt con người lên hàng đầu. Cần xây dựng cam kết chung để đào tạo kỹ năng kỹ thuật số cho lực lượng lao động.

Liên kết các nguồn lực kinh tế - xã hội (capital cluster): logistics là đáy của kim tự tháp cần thiết không chỉ cho tất cả các hoạt động của chuỗi cung ứng mà còn cho tất cả các hoạt động kinh tế như du lịch, thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực cần nhiều nguồn lực nhất để đầu tư và ngược lại, cùng với hệ thống giao thông, ngành logistics với sự ứng dụng của công nghệ số sẽ là nguồn lực quan trọng nhất của nguồn lực sản phẩm quốc gia và là nền tảng kết nối chặt chẽ với 4 nguồn lực chủ yếu còn lại: tài nguyên, con người, tài chính và xã hội. Chỉ có sự liên kết chặt chẽ các nguồn lực này mới bảo đảm sự thành công cho ngành logistics phát triển và tạo điều kiện để khởi xướng, đột phá và lan tỏa công cuộc đổi mới kinh tế lần thứ hai của đất nước.

Hợp tác quốc tế trong việc phát triển các trung tâm logistics: Chuỗi cung ứng là một lĩnh vực kinh doanh toàn cầu và đang trong quá trình chuyển đổi. Vì vậy cần có chính sách đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế trong việc phát triển các trung tâm logistics, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm như đồng bằng sông Mekong, đồng bằng sông Hồng và khu vực miền Trung. Cần coi trọng phát triển hội nhập kinh tế trong ASEAN và coi đó là trọng tâm để đàm phán thương mại quốc tế và xây dựng chiến lược chuỗi cung ứng quốc gia, bảo đảm vị trí quan trọng của Việt Nam trong khu vực. Trong đó, đặc biệt chú ý đến dự án xây dựng kênh đào Kra (Thái Lan) vì nó chắc chắn sẽ thay đổi cục diện của ngành hàng hải ASEAN và vận tải quốc tế, nhất là các tàu thương mại trên tuyến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Kênh đào mới này được cho là có lợi cho Việt Nam về mọi mặt (nhất là các tỉnh, thành phía Nam), xét trên các yếu tố kinh tế.

An ninh mạng: Chuyển đổi công nghệ số đem lại nhiều lợi ích, tuy nhiên việc ứng dụng nó cũng đem lại nhiều rủi ro. Vì vậy, cần tăng cường hợp tác và nâng cao năng lực trong lĩnh vực an ninh mạng khi xây dựng và triển khai chiến lược ứng dụng công nghệ.

Cùng với nhận thức và nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực chuyển đổi số, việc xây dựng và thực thi hiệu quả các chính sách liên quan của Chính phủ sẽ định vị ngành logistics của Việt Nam đóng vai trò ngày càng quan trọng không những trong các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà còn trong sự chuyển dịch của kinh tế khu vực và toàn cầu.

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/kinh-te-xa-hoi/logistics-trong-thoi-dai-cong-nghe-40-i318015/