Lợi ích suy đoán từ EVFTA không tự nhiên trở thành hiện thực
Chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng, với EVFTA, các lợi ích suy đoán sẽ không đương nhiên trở thành hiện thực; các quyền và nghĩa vụ không tự nhiên phát huy tác dụng nếu thiếu những nỗ lực lớn để thực thi các cam kết.
EVFTA được kỳ vọng giúp Việt Nam tăng 20% xuất khẩu sang EU trong năm 2020. (Nguồn: VIR)
Việc Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) được Nghị viện châu Âu (EP) phê chuẩn với số phiếu ủng hộ rất cao sẽ mở ra cơ hội rất lớn cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU.
Cơ hội rộng mở
EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 và là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 508 triệu dân, quy mô khoảng 18 nghìn tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu năm 2019 đạt 41,48 tỷ USD và nhập khẩu đạt 14,91 tỷ USD. Hiệp định EVFTA được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam có điều kiện thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường, thu được giá trị gia tăng cao hơn thông qua việc thiết lập thêm chuỗi cung ứng mới. Các ngành được nhận định hưởng lợi khi EVFTA có hiệu lực là: dệt may, da giày, nông sản, thủy sản, chế biến gỗ...
Ngay khi EVFTA có hiệu lực (dự kiến vào 1/7 tới), EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với gần 86% số dòng thuế từ Việt Nam và nâng lên 99% số dòng thuế sau 7 năm; trong khi Việt Nam xóa bỏ ngay 48,5% số dòng thuế cho hàng hóa EU trong năm đầu tiên và nâng lên 91,8% số dòng thuế sau 7 năm.
Vì vậy, trong buổi họp báo ngay sau khi EP phê chuẩn EVFTA, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đánh giá, EVFTA là cơ hội để Việt Nam tăng thị phần tại thị trường châu Âu và là điều kiện để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh. Những cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ có được từ Hiệp định này chắc chắn sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh về giá, mở rộng hơn thị trường xuất khẩu cho hàng Việt.
“Điều này có ý nghĩa khi hiện chỉ 42% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU được hưởng mức thuế 0% theo chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Hiệu ứng của hiệp định này tới xuất nhập khẩu sẽ dễ nhận biết nhất khi hơn 85% dòng thuế hàng Việt Nam sang EU về 0% khi EVFTA có hiệu lực. Con số này tăng lên 99% sau 7 năm. 1% còn lại được hai bên thống nhất giảm về 0% theo thuế suất trong hạn ngạch thuế quan”, ông Trần Tuấn Anh khẳng định.
Trao đổi với TG&VN, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng, theo tính toán, cùng với những lợi ích gián tiếp khác, việc thực hiện EVFTA dự kiến sẽ giúp Việt Nam tăng 20% xuất khẩu sang EU trong năm nay, tăng gần 43% vào năm 2025 (trong đó, xuất khẩu gạo tăng 65%, dệt tăng 67%, may mặc tăng 81% và da giày tăng tới 99%; đường tăng 8% và lâm sản, thịt gia súc, gia cầm và đồ uống, thuốc lá cũng tăng từ 3-4%...) và tăng gần 45% (vào năm 2030); đồng thời tăng 4-6% GDP vào năm 2025.
Cũng theo ông Phong, việc 85,6% số dòng thuế được EU ngay lập tức dỡ bỏ sau khi EVFTA có hiệu lực sẽ giúp tăng năng lực cạnh tranh cho 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này. Việt Nam xóa bỏ 48,5%, tương đương với 64,5% kim ngạch nhập khẩu vào Việt Nam, cũng sẽ giúp giảm chi phí đầu vào cho các ngành sản xuất, giảm giá hàng hóa, dịch vụ…
Cũng về tác động của EVFTA đối với xuất khẩu, Nghị sĩ Geert Bourgeois, Báo cáo viên Ủy ban Thương mại quốc tế về EVFTA và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA) giữa EU và Việt Nam cho rằng, sau khi EVFTA và EVIPA có hiệu lực, dự kiến xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU và ngược lại sẽ tăng thêm hàng chục tỷ Euro, kéo theo hàng trăm nghìn việc làm. “Hiệp định sẽ trở thành một phương thức khuyến khích sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, vì lợi ích của nhân dân”, ông Bourgeois đánh giá.
Còn theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), lợi ích từ EVFTA đến từ những con số cắt giảm thuế cụ thể. Việc cắt giảm thuế sẽ giúp giảm chi phí đầu vào cho các ngành sản xuất, giảm giá hàng hóa, dịch vụ, khơi thông một dòng chảy mới về thương mại giữa Việt Nam với EU, tạo điều kiện cho cả người dân có thể tiếp cận những hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao và giá rẻ.
Chủ động ứng phó với thách thức
Tuy nhiên, EVFTA có hiệu lực, bên cạnh nhóm hàng hưởng lợi thì có không ít nhóm ngành sẽ bất lợi khi hàng hóa EU tràn vào Việt Nam như: hóa chất, phương tiện, thiết bị vận tải, thực phẩm chế biến... Ngoài ra, hàng hóa của Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức không nhỏ, đó chính là những rào cản kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu mà EU áp dụng như: tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an tooàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc...
Nông sản là một trong những mặt hàng có cơ hội khi EVFTA có hiệu lực. (Nguồn: ĐT)
Vì vậy, theo Bộ trưởng Bộ Công Thương, để tận dụng được cơ hội, hạn chế thách thức, doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu thông tin, xây dựng kế hoạch kinh doanh trung và dài hạn. Để đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn động thực vật của EU, ngoài cải thiện công nghệ, chất lượng sản phẩm, doanh nghiêp cũng cần nâng cao chất lượng nhân lực, trình độ quản lý.
Còn theo ông Vũ Tiến Lộc, doanh nghiệp cần tìm và hiểu rõ về các cam kết, thách thức, cơ hội liên quan để định vị lại mình và phải hành động ngay, phải tái cấu trúc các thị trường, bạn hàng, nguồn cung ứng, nâng cấp nền tảng năng lực cạnh tranh của chính mình về mô hình kinh doanh, chiến lược, quản trị, nhân lực, chất lượng hàng hóa và dịch vụ theo tiêu chuẩn châu Âu.
“Không có nền tảng là năng lực cạnh tranh bền vững thì không thể hội nhập thành công”, Chủ tịch VCCI khẳngđịnh.
Ông Lộc đề xuất, Nhà nước, bên cạnh việc phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn cho doanh nghiệp về Hiệp định, thì việc chuẩn bị về thể chế rất quan trọng.
“Nỗ lực cải cách thể chế thời hội nhập phải tiếp tục củng cố những nền tảng cạnh tranh minh bạch và công bằng; phát triển bền vững, bảo đảm hài hòa các mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường; hỗ trợ doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa; thúc đẩy liên kết, phát triển công nghiệp hỗ trợ, tạo ra hệ sinh thái cộng sinh cùng có lợi giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước”, ông Vũ Tiến Lộc đề nghị.
Để khai thác những động lực tích cực từ EVFTA, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng, doanh nghiệp cần chú ý tuân thủ và vượt qua các đòi hỏi rất cao liên quan đến bảo vệ sở hữu trí tuệ, minh bạch môi trường kinh doanh, xuất xứ và chứng nhận xuất xứ hàng hóa, các hàng rào kỹ thuật và tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, minh bạch thông tin, bảo vệ môi trường.
Bên cạnh nắm chắc nội dung và lộ trình cam kết trong Hiệp định, vừa tập trung khai thác thị trường EU, doanh nghiệp cần vừa củng cố vị thế trên thị trường sân nhà; đẩy mạnh liên kết và tăng cường vai trò các hiệp hội ngành hàng…
TS. Nguyễn Minh Phong thẳng thắn chỉ rõ, Hiệp định EVFTA giúp hàng hóa Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường EU với thuế suất ưu đãi hơn các đối thủ cạnh tranh. Kinh nghiệm thực thi các cam kết WTO và các hiệp định thương mại trước đây của Việt Nam cho thấy, các lợi ích suy đoán từ một hiệp định sẽ không đương nhiên trở thành hiện thực; các quyền và nghĩa vụ theo các cam kết không tự nhiên phát huy tác dụng nếu thiếu những nỗ lực lớn để thực thi các cam kết, hiện thực hóa các lợi ích và xử lý thách thức liên quan.