Lòng dân An toàn khu Ba Tơ cùng góp sức, góp công cách mạng

Dẫu 80 năm đã qua, nhưng âm vang lời thề 'Hy sinh vì Tổ quốc' dường như vẫn vang vọng giữa núi rừng, hồn thiêng sông nước miền núi non An toàn khu Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Lời thề sắt son từ cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ ngày 11/3/1945 vẫn sáng rực tinh thần quật khởi, kiên trung của đồng bào các dân tộc miền núi huyện Ba Tơ nói chung và đồng bào Hrê nói riêng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Hào khí tháng ba cùng khát vọng tự do, lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân huyện Ba Tơ, từ những ngày kháng chiến đến ngày thống nhất non sông, dựng xây đất nước vẫn là mạch nguồn chảy mãi.

Huyện Ba Tơ.

Huyện Ba Tơ.

Vùng núi tây bắc tỉnh Quảng Ngãi hình thành các khối núi liền chân tạo nên các khe hẹp, còn ở vùng núi Ba Tơ có nhiều thung lũng sông khá thoáng rộng, các trảng đất bằng được khai khẩn xây dựng nên làng mạc, ruộng đồng. Núi rừng Ba Tơ có kiến tạo địa chất chia cắt để cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ và gắn cả thuận lợi đi cùng khó khăn. Thiên nhiên cùng với dòng chảy lịch sử hun đúc nên phẩm cách, phong khí con người Ba Tơ. Đấy là khí chất cứng cỏi, mạnh mẽ, tháo vát, cần cù trong lao động, tinh thần yêu nước cùng khát vọng tự do, đổi mới.

Góp sức, góp công cùng cách mạng

Đã sang tháng ba nhưng mưa rừng vẫn kéo dài ở thung lũng, thảo nguyên xanh giữa núi rừng An toàn khu Ba Tơ. Dấu son lịch sử tháng ba cách mạng in sâu trong tâm thức đồng bào Hrê cho dù năm tháng đi qua.

80 tuổi, vẫn ánh mắt sáng, nụ cười tươi, ông Đinh Ngọc Đê nhớ da diết những ngày kháng chiến, ký ức cứ mãi trở về. 15 tuổi, ông thoát ly gia đình để đi theo cán bộ cách mạng. Những năm 1960, ở tuổi thiếu niên, ông Đê đi cùng cán bộ Ban quân y huyện Ba Tơ hoạt động ở vùng ven, bám địa bàn các xã rồi sau đấy ông trở thành y sĩ Ban quân y huyện. Gần mười năm sau, ông Đinh Ngọc Đê đi học và trải qua nhiều nhiệm vụ quan trọng, từ Trợ lý tác chiến đến Huyện đội phó Huyện đội Sông Re.

Sống giữa bản làng cách mạng, từ nhỏ người cựu chiến binh Hrê đã nghe kể về cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ hay chuyện đội du kích đánh thắng Pháp.

Lúc đấy còn nhỏ cứ nghe người lớn kể rồi thấm sâu lúc nào không hay. Sau đó lớn hơn thì tôi tự giác, xung phong đi theo bộ đội. Được đi theo để đánh giặc là mừng lắm, không kể núi non hay khổ nhọc, cứ đi thôi.

Ông Đinh Ngọc Đê

Như chuyện vừa mới hôm qua, người cựu chiến binh già nhớ rõ những ngày bà con dân làng góp sức, góp công cùng cách mạng. “Ông già tôi ủng hộ bộ đội sản xuất con trâu ný. Trâu ný là con to, khỏe nhất, có giá trị nhất đấy. Rồi góp gạo, lúa. Nhà tôi và bà con ai có gì ủng hộ nấy. Giặc bắn phá giết trâu, bò, đốt nhà cửa nên người dân bám ruộng, bám đất, bám nhà”, vị lão thành bùi ngùi.

Đất nước thống nhất và dựng xây quê hương sau chiến tranh, nhân dân Ba Tơ lại cùng nhau góp tre, nứa, gỗ, tranh để làm cơ quan, trụ sở cho chính quyền, cán bộ làm việc. Những năm sau khi đất nước thống nhất, người có lúa, gạo, sắn cùng chia sẻ cho cán bộ, bà con nghèo. Từ tấm lòng, từ tình thương, người dân trên đỉnh núi Cao Muôn góp sức cùng cách mạng, ngay từ những ngày chiến tranh gian khổ đến ngày hòa bình cùng xây dựng đất nước.

Tinh thần vì đồng bào, vì cách mạng ấy được tiếp nối từ truyền thống lịch sử được hun đúc từ các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến trên đỉnh núi Cao Muôn. Người Hrê, huyện Ba Tơ đều nhớ những ngày lịch sử tháng ba, buổi sáng tháng ba Khởi nghĩa Ba Tơ và Đội du kích anh hùng.

Sáng ngày 11/3, tại Suối Loa, cùng với lực lượng khởi nghĩa, nhân dân Hrê cùng các đồng bào anh em từ Trường An, Suối Loa, Nước Lá, Nước Gia... nổi dậy làm chủ xóm làng và tham gia giành chính quyền ở châu lỵ Ba Tơ. Ở các ngã đường, đồng bào các dân tộc miền cao Ba Tơ cùng giáo mác, dao, rựa, cờ đỏ sao vàng, giương cao biểu ngữ hô vang các khẩu hiệu ủng hộ cách mạng.

Đến tối 11/3, đoàn quân khởi nghĩa cùng quần chúng nhân dân giải phóng châu lỵ Ba Tơ. Cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ thắng lợi cùng Đội du kích cứu quốc Ba Tơ bắt đầu những ngày kháng chiến trường kỳ.

Núi Cao Muôn, căn cứ Đội du kích Ba Tơ.

Núi Cao Muôn, căn cứ Đội du kích Ba Tơ.

Những ngày chuẩn bị khởi nghĩa, dù nghèo khó nhưng người dân Ba Tơ vẫn đóng góp lương thực cùng nhu yếu phẩm chăm lo Đội Du kích. Ở bản làng ven sông, triền núi, bà con Hrê cùng chế tạo vũ khí thô sơ để tự vũ trang bảo vệ làng, giúp sức cùng lực lượng du kích. Người dân cùng nhau xây dựng căn cứ kháng chiến ở vùng núi non hiểm trở, giúp lực lượng du kích Ba Tơ hoạt động lâu dài.

“Người dân đóng vai trò như những “trạm thông tin sống”, báo hiệu và cảnh báo khi có quân địch đến gần; sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy để bảo vệ lực lượng cách mạng. Không chỉ hỗ trợ về mặt vật chất, nhân dân còn giúp lan truyền tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng đến các vùng lân cận, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Đội Du kích Ba Tơ. Nhân dân cung cấp hậu cần, bảo vệ và tham gia chiến đấu cùng Đội Du kích Ba Tơ minh chứng rõ vai trò không thể thay thế của Nhân dân trong mọi cuộc đấu tranh”, Thượng tướng Lê Chiêm, Nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh khi nói về thế trận lòng dân cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ.

Thời gian khó ấy, cùng xây dựng lực lượng vũ trang và luyện tập quân sự, các phương tiện máy móc khắp nơi trong vùng được huy động để sản xuất vũ khí. Nhiều lò rèn, thợ rèn được động viên tham gia sản xuất; bà con bản làng thu nhặt sắt, thép, đồng đóng góp cho kháng chiến. Xưởng quân giới Phan Điệt, Từ Nhai sản xuất các loại mìn, lựu đạn, chế tạo được súng tiểu liên… Đây là cơ sở sản xuất vũ khí đầu tiên ở Quảng Ngãi phục vụ cho địa phương và lực lượng vũ trang Khu V.

Nhân dân nhiều nơi đã nhịn ăn, nhịn mặc, quyên góp lương thực, quần áo, góp quỹ nuôi quân. Bộ đội đóng quân ở đâu, Nhân dân địa phương ở đó góp sức cung cấp. Tình quân dân gắn bó, đồng cam cộng khổ, đoàn kết một lòng góp phần tạo nên sức mạnh kháng chiến.

Đại tá Võ Tấn Tài

Chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ngãi

Cán bộ, chiến sĩ Quân khu 5 và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ngãi thăm gia đình có công cách mạng huyện Ba Tơ.

Cán bộ, chiến sĩ Quân khu 5 và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Ngãi thăm gia đình có công cách mạng huyện Ba Tơ.

Khát vọng đổi mới quê hương

Kế thừa truyền thống cách mạng, tinh thần cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ qua nhiều chặng đường lịch sử đầy tự hào, vinh dự, đồng bào các dân tộc miền núi huyện Ba Tơ vẫn tấm lòng sắc son cùng đất nước và khát vọng đổi mới quê hương.

Đồng bào các dân tộc huyện Ba Tơ nói chung và bà con Hrê nói riêng sinh sống dọc theo thung lũng các dòng sông lớn đổ về xuôi. Đấy là sông Liên, sông Re, sông Tô, sông Nước Nẻ và các con suối, nơi có nhiều đồng bằng và nguồn nước. Khác với các dân tộc thiểu số ở vùng Trường Sơn-Tây Nguyên, người dân Hrê phát triển lúa nước, thủy canh từ rất sớm. Những cánh đồng lúa nước rộng lớn, xanh thẳm bên cạnh những dòng sông, nguồn nước chính từ đôi tay chịu khổ nhọc của bản làng. Cũng nhờ đấy, đàn trâu, bò lớn nhiều hơn sau mỗi năm tích lũy.

Thấu hiểu gian khổ, hy sinh vì hòa bình, độc lập, đồng bào các dân tộc huyện Ba Tơ gìn giữ truyền thống cách mạng cùng khát vọng đổi mới từng ngày.

Tinh thần đoàn kết giữ làng, cùng hướng đến cuộc sống khá hơn luôn thôi thúc để người dân Hrê biết làm ăn, hiểu về đổi mới, xóa đói giảm nghèo từ gia đình đến làng bản. Thời chống Pháp, người dân Hrê đã biết trồng lúa nước, chịu khó làm ăn phục vụ cuộc sống của mình. Để hôm nay, lúa rẫy, lúa nước, những đàn trâu, bò lớn cùng dệt thổ cẩm là cuộc sống, là văn hóa đặc sắc miền cao.

Chăm lo cuộc sống, chăm sóc sức khỏe cho bà con nhân dân miền cao Ba Tơ.

Chăm lo cuộc sống, chăm sóc sức khỏe cho bà con nhân dân miền cao Ba Tơ.

Từ những năm 2000, khi chính sách ưu tiên phát triển kinh tế-xã hội miền núi đến làng bản, người dân huyện Ba Tơ đồng thuận đi đầu, làm theo cán bộ. Nhờ vậy, chương trình 30A, 134, 135 tạo động lực đưa các vùng núi khó khăn đã đổi thay mạnh mẽ. Kết cấu hạ tầng, mô hình nông nghiệp, chăn nuôi trồng trọt phát triển vượt bật.

Đường giao thông, lưới điện, trường học, trạm y tế hiển hiện ở tận vùng sâu, vùng xa đưa cuộc sống bà con vùng núi non tốt hơn, an toàn hơn. Với người Hrê, làm cách mạng từ những ngày tháng chiến tranh gian khổ hay đến thời bình cùng đổi mới. Ý chí, khát vọng đổi mới, cuộc sống phải tốt hơn giúp nhân dân Ba Tơ kiên định, tin tưởng con đường mà Bác Hồ đã chọn.

Mình phải lo cho gia đình mình tốt lên thì mới cùng lo cho bà con trong làng, cho quê hương được.

Bà Phạm Thị Yến, thôn Mang Lùng, xã Ba Tô

Nguyên Bí thư Huyện ủy Ba Tơ Phạm Viết Nho chia sẻ, khi đưa chính sách về bản, làng người dân đồng lòng cùng chung tay, chung sức với chính quyền cơ sở.

“Phẩm chất của người Hrê là thật thà, chịu khổ, chịu khó, nhất là rất mong muốn đổi mới, tiến bộ từng ngày. Thời chúng tôi làm các chương trình để phát triển miền núi như chương trình 30A, hay chương trình 134, 135 bà con đều hiểu và làm theo. Thời đó còn nhiều khó khăn về nước sạch, giao thông, khí hậu nhưng người dân vẫn quyết tâm làm, tự khắc phục khó khăn. Bây giờ nhiều gia đình tập trung cho con đi học đến nơi đến chốn vì bà con hiểu như vậy mới thay đổi để cuộc sống tốt hơn nữa”, ông Phạm Viết Nho nhớ lại.

Chính sách Đảng, Nhà nước phát triển miền núi ngày càng phù hợp thực tiễn, đến với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Vùng an toàn khu Ba Tơ phát huy lợi thế, tiềm năng để phát triển kinh tế, gắn với bảo tồn và gìn giữ các giá trị văn hóa đặc sắc của địa phương cùng nâng cao chất lượng đời sống người dân. Năm 2024, huyện Ba Tơ đạt giá trị sản phẩm bình quân đầu người 50,7 triệu đồng; thu ngân sách nhà nước gần 43 tỷ đồng; sản lượng lương thực hơn 34.500 tấn, 96.000 ha rừng, đàn trâu, đàn bò lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi hơn 33.700 con.

Ba Tơ là vùng lõi cách mạng của tỉnh Quảng Ngãi. Đồng bào các dân tộc Ba Tơ có truyền thống yêu nước và đồng lòng, góp sức cùng cách mạng từ kháng chiến đến xây dựng đất nước. Người dân vùng núi cao Ba Tơ luôn mong muốn 'vươn mình' phát triển hơn. Bà con luôn có nguyện vọng cải thiện cuộc sống, ý chí tự lực, vượt khó của đồng bào dân tộc vùng cao Ba Tơ là những phẩm chất quý giá.

Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi Phạm Đình Khối

ĐÔNG HUYỀN

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/long-dan-an-toan-khu-ba-to-cung-gop-suc-gop-cong-cach-mang-post863934.html