Luật Bảo hiểm tiền gửi sửa đổi: Tạo hành lang pháp lý bảo vệ người gửi tiền, giữ vững an toàn hệ thống ngân hàng
Chiều 22/9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Tờ trình, Báo cáo thẩm tra và cho ý kiến về dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi). Đây là bước đi quan trọng nhằm hoàn thiện khung pháp lý, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của hàng chục triệu người gửi tiền, đồng thời củng cố an ninh, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) và ổn định kinh tế – xã hội.

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại phiên họp
Hoàn thiện khung pháp lý sau 12 năm thực thi
Trình bày Tờ trình Chính phủ tại phiên họp, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, việc xây dựng Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) sửa đổi xuất phát từ yêu cầu chính trị – pháp lý và thực tiễn cấp thiết. Về chính trị – pháp lý, đây là nhiệm vụ đã được đặt ra trong Kế hoạch 81/KH-UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để thể chế hóa Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị về hoàn thiện thể chế, đổi mới công tác xây dựng pháp luật. Luật sửa đổi cũng phù hợp với định hướng phát triển kinh tế tư nhân và các chiến lược phát triển ngành ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi.
Sau 12 năm thực thi, Luật BHTG năm 2012 đã đạt nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ người gửi tiền và ổn định hệ thống TCTD. Tuy nhiên, thực tiễn cũng bộc lộ những bất cập cần khắc phục. Chẳng hạn, quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia BHTG, của chính tổ chức BHTG cần sửa đổi để tương thích với các quy định pháp luật hiện hành và phù hợp thực tế. Cơ chế phí bảo hiểm chưa linh hoạt, chưa khuyến khích các TCTD hoạt động an toàn; hạn mức trả tiền bảo hiểm và thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm chưa đồng bộ với các luật liên quan, chưa bảo vệ tối đa quyền lợi người gửi tiền. Đặc biệt, quy định hiện hành chỉ cho phép chi trả tiền gửi khi TCTD đã có quyết định phá sản dẫn đến nguy cơ chậm trễ, không bảo đảm vai trò “tấm lá chắn” tâm lý cho người gửi tiền.
Ngoài ra, Luật Các TCTD năm 2024 đã bổ sung nhiều quy định mới về can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt và yêu cầu BHTG tham gia sâu hơn vào quá trình xử lý TCTD yếu kém. Tuy nhiên, một số quy định của Luật này dẫn chiếu thực hiện theo pháp luật BHTG, đặt ra yêu cầu cấp bách sửa đổi Luật BHTG để thống nhất, tạo cơ sở pháp lý cho BHTG Việt Nam (BHTGVN) thực hiện nhiệm vụ được giao.
Xuất phát từ các yêu cầu đó, Thống đốc cho biết, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trì xây dựng hồ sơ chính sách, lấy ý kiến các cơ quan liên quan, tiếp thu và giải trình đầy đủ. Bộ Tư pháp đã thẩm định dự án, Chính phủ họp chuyên đề pháp luật và thống nhất trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 10 khóa XV.
Nhiều điểm đổi mới nhằm tăng cường bảo vệ người gửi tiền và xử lý rủi ro hệ thống
Dự thảo Luật BHTG (sửa đổi) gồm 8 chương, 44 điều, trong đó sửa đổi 28 điều, bổ sung 7 điều, bãi bỏ 2 điều và giữ nguyên 9 điều. Nội dung sửa đổi toàn diện, có tính đột phá, nổi bật ở các nhóm chính sau:
Bổ sung quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG. Tổ chức BHTG được quyền kiểm tra tổ chức tham gia BHTG theo kế hoạch do NHNN giao; được vay đặc biệt từ NHNN; tham gia sâu vào quá trình cơ cấu lại TCTD, như cử nhân sự đủ điều kiện vào ban lãnh đạo các quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) kiểm soát đặc biệt, tham gia đánh giá phương án cơ cấu, mua trái phiếu dài hạn của TCTD nhận chuyển giao bắt buộc, hoặc cho vay đặc biệt các tổ chức tham gia BHTG.
Cơ chế phí BHTG linh hoạt. Dự thảo cho phép Thống đốc NHNN quy định mức phí đồng hạng hoặc phân biệt tùy đặc thù từng giai đoạn, đồng thời bổ sung cơ chế tạm hoãn nộp phí với TCTD đang kiểm soát đặc biệt, nhằm hỗ trợ phục hồi tài chính nhưng vẫn bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả.
Đẩy nhanh thời điểm và nâng hạn mức chi trả bảo hiểm. Nghĩa vụ chi trả bảo hiểm có thể phát sinh sớm hơn – ngay khi phương án phá sản được phê duyệt, NHNN xác nhận chi nhánh ngân hàng nước ngoài mất khả năng chi trả hoặc đình chỉ nhận tiền gửi khi lỗ lũy kế vượt 100% vốn điều lệ. Trong trường hợp đặc biệt, Thống đốc NHNN có thể quyết định chi trả toàn bộ các khoản tiền gửi được bảo hiểm. Những quy định này tăng đáng kể khả năng bảo vệ người gửi tiền, ngăn ngừa nguy cơ đổ vỡ dây chuyền.

Toàn cảnh phiên họp
Mở rộng hoạt động đầu tư và tăng cường năng lực tài chính cho BHTGVN. Dự thảo cho phép BHTGVN đầu tư mua bán trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng thương mại (NHTM) có vốn nhà nước hoặc vốn doanh nghiệp nhà nước trên 50%, gửi tiền tại các NHTM này và thực hiện hoạt động đầu tư khác theo quy định của Chính phủ. Đồng thời, dự thảo quy định rõ yêu cầu kiểm soát, quản lý rủi ro, giao NHNN ban hành phương thức đầu tư và quy trình quản trị rủi ro, nhằm bảo đảm an toàn và hiệu quả vốn.
Tham gia xử lý TCTD yếu kém và khủng hoảng. BHTGVN được quyền cho vay đặc biệt, có thể không cần tài sản bảo đảm và không tính lãi, cho các TCTD bị rút tiền hàng loạt hoặc để thực hiện phương án phục hồi, chuyển giao bắt buộc. Khi phát sinh sự cố, khủng hoảng có nguy cơ đe dọa an toàn hệ thống, Chính phủ có thẩm quyền quyết định các biện pháp cần thiết, kể cả biện pháp khác luật, và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Đây là cơ chế quan trọng để BHTGVN trở thành “điểm tựa cuối cùng” bảo vệ sự ổn định tài chính quốc gia.
Phân cấp, phân quyền rõ ràng, phù hợp chủ trương của Đảng. Dự thảo tiếp tục giao Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động, quản lý và đầu tư vốn của BHTGVN; bổ sung thẩm quyền cho Thủ tướng phê duyệt chiến lược phát triển BHTG; phân cấp một số nội dung từ Chính phủ, Thủ tướng cho Thống đốc NHNN như quy định về cung cấp thông tin, cấp lại Chứng nhận tham gia BHTG, quy định phí và hạn mức trả bảo hiểm. Đồng thời, một số nhiệm vụ của NHNN được chuyển cho BHTGVN để chủ động thực thi, bảo đảm phù hợp xu hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm giải trình.
Dự thảo cũng quy định điều khoản chuyển tiếp về xử lý các kỳ phiếu, tín phiếu phát hành trước thời điểm luật có hiệu lực và về các TCTD đang trong diện kiểm soát đặc biệt, bảo đảm tính liên tục và ổn định của chính sách.
Tiếp tục hoàn thiện dự án luật
Báo cáo thẩm tra sơ bộ dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính (KTTC) Phan Văn Mãi đã khẳng định sự cần thiết xây dựng dự án Luật này trên cơ sở các căn cứ chính trị, pháp lý và thực tiễn được nêu tại Tờ trình của Chính phủ và hồ sơ dự án kèm theo. Hồ sơ cơ bản đáp ứng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo, bảo đảm phù hợp với chủ trương, quan điểm của Đảng, tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất với hệ thống pháp luật; đồng thời cần đánh giá kỹ hơn về nguồn lực và điều kiện bảo đảm thi hành Luật.
Về các nội dung cụ thể, cơ quan thẩm tra đề nghị nhấn mạnh trước hết đến quyền và nghĩa vụ của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi (Điều 14). Cần quy định rõ vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và tổ chức tham gia trong tính phí, làm rõ chủ thể xác định phí làm căn cứ nộp phí; làm rõ phạm vi, đối tượng và nội dung kiểm tra của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia, tránh trùng lặp với các cơ quan được giao chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát tổ chức tín dụng; quy định cụ thể các trường hợp và điều kiện tổ chức bảo hiểm tiền gửi được tiếp nhận hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, vay của tổ chức tín dụng khác có bảo lãnh của Chính phủ hoặc vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; đồng thời phân biệt rõ thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam trong việc bố trí nhân sự tham gia quản lý, điều hành quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt.
Đối với hoạt động bảo hiểm tiền gửi (Chương III), Thường trực Ủy ban KTTC cơ bản tán thành quy định về phí bảo hiểm tiền gửi nhưng đề nghị nghiên cứu kỹ mức phí, bảo đảm vừa ổn định nguồn thu vừa phù hợp năng lực tài chính của tổ chức tham gia; xác định lộ trình xây dựng mức phí trên cơ sở đánh giá, phân loại tổ chức tín dụng; nghiên cứu cơ chế chia sẻ phí giữa bảo hiểm tiền gửi và Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân để giảm gánh nặng tài chính. Chính sách tạm hoãn nộp phí với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt cần được đưa vào phương án cơ cấu lại được cấp có thẩm quyền phê duyệt, làm rõ thời hạn tạm hoãn, việc tính lãi và phương án xử lý khi không thể hoàn trả. Về hạn mức trả tiền bảo hiểm (Điều 24), việc giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định hạn mức theo từng thời kỳ là phù hợp nhưng cần có nguyên tắc điều chỉnh cụ thể và quy trình phê duyệt minh bạch cho các trường hợp chi trả vượt hạn mức; đồng thời cần làm rõ sự phù hợp giữa số dư tính phí và số tiền bảo hiểm được trả, cân nhắc không quy định chi tiết trình tự, thủ tục chi trả trong Luật…
Liên quan đến tổ chức bảo hiểm tiền gửi (Chương IV), cơ quan thẩm tra đề nghị rà soát và đánh giá khung pháp lý về mô hình tổ chức và hoạt động, nhận diện vướng mắc; đối với hoạt động đầu tư (Điều 31) cần nhận diện, đánh giá rủi ro, xây dựng phương án phòng ngừa, kiểm soát, quản lý rủi ro, phân tích hiệu quả sử dụng vốn, bảo đảm cơ chế bảo toàn vốn, thanh khoản và an toàn, làm rõ vai trò của Ngân hàng Nhà nước với tư cách cơ quan đại diện chủ sở hữu trong quyết định tiêu chí, danh mục và cơ cấu đầu tư cũng như kiểm soát rủi ro, đồng thời quy định trách nhiệm của các bên liên quan khi xử lý rủi ro. Về chế độ tài chính, hạch toán, kế toán và kiểm toán (Điều 32), cần bảo đảm tính thống nhất với Luật Kế toán và chuẩn mực kế toán phù hợp với mô hình và tính chất hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Đối với nội dung tham gia xử lý tổ chức tín dụng được can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt và xử lý sự cố, khủng hoảng (Chương VII), Ủy ban KTTC đề nghị cần quy định cụ thể quy mô cho vay đặc biệt tối đa trên tổng quỹ dự phòng nghiệp vụ, xây dựng bộ tiêu chí phê duyệt minh bạch, tăng cường giám sát việc sử dụng khoản vay, làm rõ trường hợp vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước và trường hợp vay đặc biệt từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi, kèm hướng dẫn điều kiện, lãi suất và tài sản bảo đảm; đồng thời làm rõ cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn cho quy định về chi trả trong trường hợp đặc biệt (Điều 38) và tham gia xử lý sự cố, khủng hoảng (Điều 41), bảo đảm phù hợp nguồn lực và tránh trùng lặp với Luật Các tổ chức tín dụng, cân nhắc bỏ quy định Chính phủ quyết định các biện pháp khác luật vì đã được quy định tại khoản 4 Điều 162 của Luật này.