Luật Căn cước công dân (sửa đổi): Có nên cấp thẻ Căn cước công dân cho trẻ em dưới 14 tuổi?
Về Luật Căn cước công dân (sửa đổi), Chính phủ đề nghị bổ sung đối tượng được cấp thẻ Căn cước công dân và đối tượng được cấp giấy chứng nhận căn cước.
Tạo cơ sở thúc đẩy quá trình cơ cấu lại tổ chức tín dụng
Sáng 17/3, tiếp tục Chương trình Phiên họp thứ 21, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đề nghị bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 đối với 02 dự án: Luật Căn cước công dân (sửa đổi), Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).
Thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình bày tờ trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, Chính phủ đề nghị bổ sung dự án Luật Căn cước công dân (sửa đổi) và Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) vào Chương trình năm 2023, trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5 và thông qua tại Kỳ họp thứ 6.
Về dự án Luật Căn cước công dân (sửa đổi), Bộ trưởng Lê Thành Long nêu, theo Tờ trình của Bộ Công an, Luật Căn cước công dân được Quốc hội khóa XIII thông qua, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2016, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, giao dịch của nhân dân, phục vụ yêu cầu nghiệp vụ và góp phần phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm trật tự, an toàn xã hội.
Để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thi hành Luật Căn cước công dân và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ liên quan đến ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, phát huy giá trị, tiện ích thẻ Căn cước công dân, phục vụ phát triển ứng dựng dữ liệu về dân cư, định danh điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030, Chính phủ đề nghị xây dựng Luật Căn cước công dân (sửa đổi) với 04 nhóm chính sách.
Thứ nhất, quy định việc tích hợp thông tin khác ngoài thông tin trong Cơ sở dữ liệu căn cước công dân vào thẻ Căn cước công dân; thẻ Căn cước công dân có giá trị sử dụng để cung cấp thông tin về công dân và tương đương việc xuất trình các giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền cấp có thông tin đã được in hoặc tích hợp trong thẻ Căn cước công dân.
Thứ hai, bổ sung thông tin lưu trữ trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu căn cước công dân; thứ ba, bổ sung đối tượng được cấp thẻ Căn cước công dân và đối tượng được cấp giấy chứng nhận căn cước.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về quản lý, vận hành, khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân; tài khoản định danh điện tử (căn cước điện tử) và việc sử dụng tài khoản định danh điện tử; cấp, hủy/thu hồi số định danh cá nhân; quy định về việc sử dụng thống nhất thẻ Căn cước công dân và việc hạn chế phát sinh thủ tục hành chính có liên quan.
Về dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), theo Tờ trình của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa XII thông qua và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017) đã có những đóng góp quan trọng trong công tác quản lý cũng như tạo môi trường pháp lý ổn định cho hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Để bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, đổi mới hoạt động ngân hàng theo nội dung nhiệm vụ trọng tâm cơ cấu lại nền kinh tế theo định hướng, quan điểm, mục tiêu của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; tạo hành lang pháp lý trong hoạt động xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng sau khi Nghị quyết số 42/2017/QH14 hết hiệu lực ngày 31/12/2023, chỉnh sửa, hoàn thiện, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành, Chính phủ đề nghị xây dựng Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) với 06 chính sách.
Cụ thể, hoàn thiện quy định về nâng cao yêu cầu quản trị, điều hành, hạn chế lạm dụng quyền cổ đông lớn, quyền quản trị, điều hành để thao túng hoạt động của tổ chức tín dụng; hoàn thiện quy định về hoạt động và bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân;
Hoàn thiện quy định về dịch vụ ngân hàng qua phương tiện điện tử và số hóa dịch vụ ngân hàng, hỗ trợ, thúc đẩy, quản lý ngân hàng số tạo nền tảng cho việc ứng dụng các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; hoàn thiện các quy định nhằm tạo cơ sở thúc đẩy quá trình cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý tổ chức tín dụng yếu kém; quy định về xử lý nợ xấu; quy định về xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Có nên cấp thẻ Căn cước công dân cho trẻ em dưới 14 tuổi?
Thẩm tra đề nghị bổ sung 02 dự án Luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết, Thường trực Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Quốc phòng và An ninh, Ủy ban Kinh tế và các cơ quan tán thành với sự cần thiết sửa đổi 02 Luật để kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng, khắc phục những hạn chế, bất cập đã được chỉ ra qua tổng kết thi hành các luật, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Hồ sơ đề nghị xây dựng 02 dự án Luật đáp ứng yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định việc bổ sung vào Chương trình. Tuy nhiên, đề nghị trong quá trình xây dựng 02 dự án Luật, Chính phủ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hồ sơ, bảo đảm tính toàn diện của nội dung các chính sách, báo cáo đánh giá tác động và bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khả thi.
Về dự án Luật Căn cước công dân (sửa đổi), Thường trực Ủy ban Pháp luật và các cơ quan nhận thấy, về cơ bản 04 nhóm chính sách được đề xuất trong đề nghị xây dựng Luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước.
Về việc bổ sung quy định cấp thẻ Căn cước công dân cho trẻ em dưới 14 tuổi, ông Hoàng Thanh Tùng thông tin, đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban Pháp luật và Ủy ban Quốc phòng và An ninh đề nghị cân nhắc việc bổ sung quy định này vì: Ở độ tuổi dưới 14, trẻ em đang trong giai đoạn phát triển nên thông tin nhân dạng khó chính xác.
Phần lớn trẻ em dưới 14 tuổi không tự mình (hoặc không được phép) thực hiện các giao dịch hành chính, dân sự. Bên cạnh đó, hồ sơ đề nghị chưa làm rõ, đánh giá đầy đủ về nhu cầu cấp thẻ của lứa tuổi này, trong khi việc cấp thẻ cho dù là không bắt buộc vẫn phát sinh chi phí.
Mặt khác, khi xem xét, thông qua Luật Căn cước công dân năm 2014, vấn đề này đã được thảo luận nhưng Quốc hội quyết định chỉ cấp thẻ Căn cước công dân cho công dân từ đủ 14 tuổi trở lên.
Một số ý kiến cho rằng chính sách cấp thẻ Căn cước công dân cho trẻ em dưới 14 tuổi như đề xuất của Chính phủ là phù hợp, nhất là trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia hiện nay. Tuy nhiên, đề nghị nghiên cứu quy định rõ hơn về đặc điểm nhân dạng của trẻ em để ghi nhận trong thẻ Căn cước, xác định cụ thể lộ trình thực hiện theo từng lứa tuổi nhất định để bảo đảm tính khả thi.
Về việc bổ sung quy định cấp giấy chứng nhận căn cước cho người gốc Việt Nam không có quốc tịch sinh sống tại Việt Nam, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho rằng, theo quy định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, người không quốc tịch (bao gồm cả người gốc Việt Nam không quốc tịch) thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam đã được xem xét cấp thẻ thường trú. Do đó, đề nghị không quy định việc cấp giấy chứng nhận căn cước cho nhóm đối tượng này để tránh trùng lặp, phát sinh thêm giấy tờ.
Thường trực Ủy ban Pháp luật nhận thấy, theo hồ sơ đề nghị xây dựng Luật, trong nhóm 31.117 người gốc Việt Nam không có quốc tich đang sinh sống tại Việt Nam có nhiều người không có giấy tờ tùy thân, chưa được đăng ký cư trú nên cần có biện pháp quản lý phù hợp, tạo điều kiện để họ có thể tham gia vào các giao dịch dân sự, hành chính, dịch vụ công.
Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ làm rõ: Căn cứ, tiêu chí để cấp giấy chứng nhận căn cước cho người gốc Việt Nam không xác định được quốc tịch, chưa được đăng ký cư trú, không có giấy tờ tùy thân; lý do chưa xác định được quốc tịch (theo đó cần cấp giấy chứng nhận căn cước) đối với 775 con lai giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài không có quốc tịch, vì theo Luật Quốc tịch thì những người này có quốc tịch Việt Nam.
Về dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Thường trực Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Kinh tế và các cơ quan nhận thấy, 06 chính sách được đề xuất trong đề nghị xây dựng Luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, cơ bản bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tương thích trong hệ thống pháp luật và có tính khả thi.
Tuy nhiên, đây là dự án Luật khó, phức tạp, liên quan đến nhiều luật và nhiều cam kết quốc tế, do đó đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đối chiếu với các quy định của pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tính tương thích với các cam kết quốc tế.