Luật Căn cước công dân (sửa đổi): Những tín hiệu tích cực với kiều bào
Là dự án luật rất quan trọng liên quan đến đông đảo nhân dân và cử tri, Luật Căn cước công dân (sửa đổi) cũng đang nhận được sự quan tâm của đông đảo cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN).
Tại phiên họp thường kỳ thứ 21, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí bổ sung dự án Luật Căn cước công dân (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh 2023 để trình Quốc hội xem xét cho ý kiến tại Kỳ họp thứ năm và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ sáu.
Thực trạng và nhu cầu của kiều bào
Hiện nay, nhiều công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài không có nơi thường trú ở Việt Nam gặp khó khăn trong việc xin cấp thẻ Căn cước công dân (CCCD) và số định danh.
Điều 19 Luật CCCD năm 2014 quy định chung “Công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi được cấp thẻ CCCD”. Tuy nhiên, Luật CCCD không quy định rõ công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài là đối tượng được cấp CCCD dẫn đến cách hiểu và thực hiện chưa thống nhất.
Đồng thời, các quy định khác tại Luật CCCD và Nghị định 137/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật CCCD quy định công dân phải khai thông tin về nơi thường trú ở Việt Nam khi làm thủ tục xin cấp CCCD và số định danh cá nhân. Như vậy, các quy định này chưa tính đến đặc thù của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài là đa số không có hộ khẩu thường trú ở Việt Nam, dẫn đến nhiều người khó khăn hoặc không đủ điều kiện được cấp CCCD khi làm thủ tục tại các địa phương.
Trong số công dân Việt Nam đang định cư ở nước ngoài chưa được cấp CCCD Việt Nam còn có đối tượng trẻ em dưới 14 tuổi, gồm: trẻ em là công dân Việt Nam sinh ra và thường trú ở nước ngoài, trẻ em sinh ra và đăng ký khai sinh tại Việt Nam đã được cấp số định danh cá nhân và sau đó theo bố mẹ đi định cư ở nước ngoài. Số trẻ em này khi đủ 14 tuổi sẽ là đối tượng được cấp CCCD theo quy định tại Điều 19 Luật CCCD 2014.
Khoản 1 Điều 20 Luật CCCD quy định “Thẻ CCCD là giấy tờ tùy thân của công dân Việt Nam có giá trị chứng minh về CCCD của người được cấp thẻ để thực hiện các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam”. Nhiều công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài mặc dù không có hộ khẩu thường trú ở Việt Nam nhưng vẫn có nhu cầu thực hiện các thủ tục hành chính và giao dịch dân sự, do họ thường xuyên về thăm quê hương, lao động, đầu tư, kinh doanh…
Trong các đợt khảo sát ý kiến của người Việt Nam định cư ở nước ngoài về tình hình thi hành chính sách, pháp luật liên quan và trong tiếp tiếp xúc với đại diện Lãnh đạo Ủy ban Nhà nước về NVNONN, nhiều công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bày tỏ nguyện vọng được tạo điều kiện cấp CCCD để thuận tiện trong thực hiện các thủ tục hành chính, giao dịch dân sự, dịch vụ công tại Việt Nam.
Hiện công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn dùng hộ chiếu để thực hiện thủ tục hành chính và giao dịch dân sự. Tuy nhiên, thời gian tới, thẻ CCCD sẽ tích hợp nhiều thông tin bao gồm tình trạng hôn nhân, bảo hiểm y tế, bằng lái xe, bảo hiểm xã hội, thẻ ngân hàng… Do đó, nguyện vọng của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài là chính đáng và cần tạo điều kiện thuận lợi cấp CCCD cho những công dân này.
Những nguyện vọng cụ thể
Chị Nguyễn Thị Diệu Linh, Chủ tịch Liên hiệp Hội thanh niên sinh viên Việt Nam tại châu Âu, Phó Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Czech, chia sẻ: “Đối với người Việt ở nước ngoài, đặc biệt với các công dân Việt Nam sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, nhiều người không có hoặc không giữ được hộ khẩu ở Việt Nam, mà theo quy định có nêu để được cấp CCCD phải có hộ khẩu thường trú ở Việt Nam.
Ngoài ra, thông thường người Việt ở nước ngoài khi về Việt Nam để thăm gia đình, làm việc… trong thời gian khoảng một tháng và tranh thủ đi làm CCCD. Đơn cử trường hợp của bạn tôi khi về Việt Nam đã phải đổi vé hai lần để chờ làm CCCD, vì thời gian bị kéo dài từ bốn tuần lên năm tuần, rồi sáu tuần”.
Bởi vậy, chị Diệu Linh kỳ vọng thời gian tới sẽ sớm có hướng dẫn cụ thể về thủ tục cấp CCCD cho công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Từ Nhật Bản, ông Đỗ Quang Ba, Chủ tịch Hiệp hội Giao lưu văn hóa thể thao Việt Nam Nhật Bản, bày tỏ mong muốn các công dân Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài có thể làm CCCD tại Đại sứ quán hoặc Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại nước đang sinh sống.
Ông chia sẻ: “Việc phải ngừng công việc để về trong nước chỉ để làm CCCD sẽ khó khăn đối với kiều bào. Hơn nữa, với một số người đã ra nước ngoài khá lâu giống như tôi, mặc dù trên hộ khẩu cũ vẫn ghi địa chỉ thường trú nhưng hiện tại nhà của họ không còn ở đó. Bởi vậy, nếu công dân đang ở nước ngoài thì có thể ghi địa chỉ thường trú tại địa chỉ đăng ký tại nước ngoài”.
Có chung nguyện vọng với ông Đỗ Quang Ba, bà Mai Quế Anh, Việt kiều tại Hungary, bày tỏ mong muốn trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, nơi thường trú của người Việt Nam ở nước ngoài là địa chỉ nơi ở của người đó tại quốc gia người đó định cư.
Ngoài ra, về nơi làm thủ tục cấp, đổi, cấp lại thẻ CCCD, Đại sứ quán Việt Nam tại các nước, trên cơ sở liên thông với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước, có thẩm quyền tổ chức làm thủ tục cấp thẻ CCCD cho người Việt Nam có quốc tịch Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Bà Mai Quế Anh chia sẻ: “Tôi rất hy vọng Nhà nước mình tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài làm được CCCD. Bộ Công an nên có những hướng dẫn chi tiết và cụ thể thì tính khả thi về làm CCCD cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sẽ cao hơn”.
Bộ Ngoại giao đồng hành
Về dự thảo Luật Căn cước công dân (sửa đổi) phần liên quan đến công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao đã có ý kiến: Luật CCCD cần nêu rõ công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được cấp CCCD để tránh cách hiểu khác nhau và tạo thuận lợi khi quy định chi tiết. Đồng thời, Luật cần giao Chính phủ quy định chi tiết việc cấp thẻ CCCD cho công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài (thẩm quyền, thủ tục, nội dung ghi trên thẻ CCCD khi không có nơi thường trú ở Việt Nam). Bộ Ngoại giao tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an trong quá trình soạn thảo văn bản quy định chi tiết.
Là cơ quan chủ trì, Bộ Công an đã có ý kiến tiếp thu, giải trình: Tại khoản 1 Điều 20 dự thảo Luật quy định rõ: “Người được cấp thẻ CCCD là công dân Việt Nam”. Theo đó, không phân biệt là công dân Việt Nam đang cư trú trong nước hay ở nước ngoài đều có quyền được cấp thẻ CCCD. Đồng thời, khoản 2 Điều 19 dự thảo Luật đã giao Bộ trưởng Bộ Công an quy định cụ thể về nội dung thể hiện trên thẻ CCCD đối với thông tin về nơi cư trú và trường hợp người không có hoặc không thu nhận đầy đủ thông tin cần thể hiện trên thẻ. Theo đó, đối với công dân Việt Nam không cư trú trong nước – không có nơi thường trú, tạm trú trong nước thì sẽ vẫn được cấp thẻ CCCD.
Như vậy, ý kiến đóng góp của Bộ Ngoại giao sẽ tiếp tục được tiếp thu trong quá trình triển khai, hướng dẫn thực hiện Luật CCCD sửa đổi (tại các văn bản dưới luật).