Luật Công nghiệp Công nghệ số: Thiết lập khung pháp lý vững chắc để Việt Nam trở thành trung tâm công nghệ số
Thời gian qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã triển khai nhiều nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt là công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế.
Sau khi hợp nhất, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp chỉ đạo xây dựng nội dung các luật, thực hiện những thay đổi căn bản nhằm phù hợp với việc triển khai Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Ảnh minh họa: Vietnam+
Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, 5 dự án luật quan trọng thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ, gồm: Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) và Luật Công nghiệp công nghệ số đã được thông qua.
Là quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành luật riêng về công nghiệp công nghệ số, Luật Công nghiệp Công nghệ số được thông qua ngày 14/6/2025 và có hiệu lực từ 1/1/2026 (một số điều từ 1/7/2025) đánh dấu bước tiến chiến lược, từng bước đưa Việt Nam trở thành trung tâm công nghệ số toàn cầu.
Những giá trị nổi bật của Luật
Với các chính sách ưu đãi vượt trội, chiến lược phát triển nguồn nhân lực công nghiệp công nghệ số chất lượng cao, thu hút nhân tài, xây dựng hạ tầng số hiện đại và hệ sinh thái đồng bộ, Luật Công nghiệp Công nghệ số không chỉ là đạo luật chuyên ngành mà còn là đòn bẩy thể chế mạnh mẽ thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số nhanh, mạnh và bền vững. Những thông tin trên được ông Nguyễn Khắc Lịch, Cục trưởng Cục Công nghiệp Công nghệ Thông tin cho biết tại buổi họp báo của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 27/6.
Hành lang pháp lý tiên phong; chính sách ưu đãi vượt trội; thúc đẩy “Make in Vietnam”; phát triển nhân lực, thu hút trọng dụng nhân tài, nhân lực công nghiệp công nghệ số chất lượng cao; hình thành lực lượng doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến, đủ số lượng để thực hiện chiến lược phát triển quốc gia số; phát triển bền vững và hệ sinh thái công nghệ là những giá trị nổi bật của Luật Công nghiệp Công nghệ số.
Cụ thể, Luật điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực công nghiệp công nghệ số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI) và tài sản số, tạo nền tảng pháp lý đồng bộ để phát triển các ngành công nghệ số mũi nhọn. Với việc quy định chi tiết về quản lý AI và tài sản số, Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong việc xây dựng khung pháp lý về công nghiệp công nghệ số minh bạch, đảm bảo an toàn, an ninh mạng và quyền lợi người dùng.
Để ngành công nghiệp công nghệ số trở thành động lực kinh tế chủ đạo với tốc độ tăng trưởng gấp 2-3 lần GDP, Luật đưa ra các ưu đãi vượt trội cho các dự án trọng điểm trong lĩnh vực công nghệ số, bán dẫn, AI, và trung tâm dữ liệu. Điển hình là các dự án có vốn từ 6.000 tỷ đồng trở lên được hưởng thuế suất 5% trong 37 năm, miễn thuế 6 năm, giảm 50% thuế trong 13 năm tiếp theo, cùng miễn giảm tiền thuê đất lên đến 22 năm và giảm 75% cho những năm còn lại. Các khu công nghệ số tập trung và dự án khởi nghiệp sáng tạo được hưởng ưu đãi tương tự các địa bàn đặc biệt khó khăn.
Chương trình “Make in Vietnam” được Luật Công nghiệp Công nghệ số quy phạm hóa, ưu tiên sử dụng sản phẩm công nghệ số Việt Nam trong các dự án ngân sách nhà nước, đảm bảo thị trường đầu ra ổn định. Doanh nghiệp khởi nghiệp được hỗ trợ kinh phí mua công nghệ, phát triển mẫu thử, và xúc tiến thương mại quốc tế. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích chuyển giao công nghệ, hợp tác với doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh toàn cầu.
Luật đặt trọng tâm phát triển nhân lực công nghệ số với các chính sách hỗ trợ đào tạo, cấp học bổng, tín dụng ưu đãi cho người học và xây dựng nền tảng dạy học trực tuyến. Theo đó nhân lực công nghiệp công nghệ số chất lượng cao được miễn thuế thu nhập cá nhân 5 năm, cấp visa 5 năm cho chuyên gia nước ngoài, cùng cơ chế lương, thưởng cạnh tranh…
Nghị quyết 57-NQ/TW đặt yêu cầu “Hình thành và phát triển một số doanh nghiệp công nghệ số chiến lược trong nước quy mô lớn để phát triển hạ tầng số, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia và đủ năng lực cạnh tranh quốc tế”. Luật Công nghiệp Công nghệ số xây dựng các cơ chế để thực hiện mục tiêu này. Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp nghiên cứu và phát triển các công nghệ số trọng điểm, thuộc các dự án quan trọng quốc gia, dự án có tính chất yêu cầu đặc biệt, đồng thời hỗ trợ tài chính và xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường quốc tế. Luật còn hướng tới xây dựng một hệ sinh thái doanh nghiệp công nghiệp công nghệ số mạnh mẽ với mục tiêu đạt 150.000 doanh nghiệp vào năm 2035. Doanh nghiệp vừa và nhỏ được hỗ trợ chi phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực chất lượng cao, và ưu tiên tham gia đấu thầu các dự án mua sắm công.
Luật khuyến khích phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghệ số thân thiện môi trường, thúc đẩy tái sử dụng, tái chế và giảm thiểu tác động môi trường. Hệ sinh thái công nghệ số được xây dựng với sự hợp tác giữa doanh nghiệp lớn, nhỏ và phụ trợ. Hạ tầng số như trung tâm dữ liệu AI, mạng 5G được ưu tiên đầu tư với sự tham gia của cả nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) cho phép doanh nghiệp thử nghiệm sản phẩm và dịch vụ mới.
Điểm nhấn nổi bật của Luật
Theo ông Nguyễn Khắc Lịch, thiết lập khung pháp lý vững chắc cho công nghiệp công nghệ số, bán dẫn, AI và tài sản số là những điểm nhấn nổi bật của Luật Công nghiệp Công nghệ số.
Lần đầu tiên, công nghiệp bán dẫn - nền tảng cho tương lai được pháp lý hóa với chiến lược phát triển chip chuyên dụng, liên kết chuỗi cung ứng toàn cầu. Các dự án bán dẫn được hưởng ưu đãi đặc thù, hỗ trợ từ sản phụ trợ, sản xuất sản phẩm bán dẫn đến sản xuất thiết bị điện tử. Doanh nghiệp được nhập khẩu dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng và hỗ trợ kinh phí nghiên cứu và phát triển, hướng tới làm chủ công nghệ và nâng vị thế Việt Nam trong chuỗi bán dẫn toàn cầu.
Trí tuệ nhân tạo - động lực đổi mới, phương thức sản xuất mới lần đầu tiên được thiết lập khung pháp lý với nguyên tắc lấy con người làm trung tâm, đảm bảo minh bạch, an toàn và kiểm soát rủi ro. Hệ thống AI rủi ro cao và tác động lớn được quản lý chặt chẽ về kỹ thuật, dữ liệu, và an ninh mạng. Sản phẩm công nghệ số AI phải có dấu hiệu nhận dạng, tăng cường trách nhiệm của các chủ thể phát triển, cung cấp, và sử dụng AI, thúc đẩy ứng dụng AI trong kinh tế, xã hội.
Đặc biệt, phát triển dữ liệu số trong hoạt động công nghiệp công nghệ số được Luật quy định trở thành tài nguyên, tư liệu sản xuất quan trọng và đưa trí tuệ nhân tạo trở thành phương thức sản xuất mới; thúc đẩy mạnh mẽ năng lực nội sinh quốc gia, tạo ra những mô hình kinh tế mới với năng suất và giá trị vượt trội. Nhà nước có chính sách ưu đãi cao nhất để thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, triển khai, sử dụng AI.
Theo báo cáo của một số tổ chức quốc tế, hơn 1/5 dân số Việt Nam sở hữu tiền mã hóa, đứng thứ hai toàn cầu (Triple-A 2024), xếp thứ ba thế giới về chấp nhận tiền điện tử của người dân (The 2023 Global Crypto Adoption Index, Chainalysis). Tuy nhiên, chưa có hành lang pháp lý đối với tiền mã hóa, một loại tài sản số. Luật Công nghiệp công nghệ số đóng vai trò làm cơ sở quan trọng để định hình hành lang pháp lý đối với tài sản số, đảm bảo quyền sở hữu, giao dịch và bảo mật tài sản số. Đây là một yêu cầu cấp thiết của thực tiễn phát triển của đất nước hiện nay. Ngoài ra, luật còn khuyến khích đổi mới công nghệ, hỗ trợ phát triển các nền tảng blockchain. Đồng thời, bảo vệ người dùng trước các rủi ro như lừa đảo hoặc mất mát tài sản số do thiếu quy định. Qua đó, Luật Công nghiệp công nghệ số góp phần xây dựng một hệ sinh thái số minh bạch, bền vững và thúc đẩy kinh tế số phát triển.
Đảng xác định phát triển hạ tầng đồng bộ, hiện đại là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, trong đó hạ tầng công nghiệp công nghệ số có vai trò quan thiết yếu trong phát triển kinh tế số, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển làm chủ công nghệ số, nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế của Việt Nam. Để xây dựng nền tảng hạ tầng công nghệ số hiện đại, đáp ứng mục tiêu trên, Luật Công nghiệp Công nghệ số khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng thông qua ưu đãi thuế, đất đai và tín dụng. Nhà nước ưu tiên ngân sách cho các hạ tầng dùng chung như trung tâm dữ liệu AI, mạng 5G, và điện toán đám mây, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế số.
Doanh nghiệp được hỗ trợ phát triển thị trường trong và ngoài nước thông qua cung cấp thông tin, kết nối cung cầu và quảng bá sản phẩm “Make in Vietnam”. Các gói thầu công nghệ số trọng điểm được ưu tiên chỉ định thầu, đặt hàng trực tiếp, tạo cơ hội cho doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam.